Bỏ qua nội dung chính

Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước

Tìm kiếm
Trang chủ
Tra cứu
Tài Liệu Số
Thư viện Koha
Văn bản
Youtube
Gallery
  

Blogs khác
Không có khoản mục nào trong danh sách này.
Liên kết
Không có khoản mục nào trong danh sách này.

Thư viện Tỉnh Đồng Nai > Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước > Danh mục
Vai trò của Hồ Chí Minh trong thiết lập và tranh thủ mối quan hệ với quân đồng minh nhằm tăng cường thế – lực cho cách mạng tháng tám

Trải qua thực tiến các cao trào cách mạng từ sau năm 1930, phát huy tính độc lập chủ trong vận dụng lý luận gắn với thực tiễn, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ VIII khoá I (5-1941) 1941)đánh dấu bước hoàn thiện chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng khi đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và quyết định chuẩn bị toàn diện cho cuộc đấu tranh giành chính quyền cách mạng. Tại Hội nghị này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hết sức nhấn mạnh tới việc cần thiết phải xác lập và tăng cường mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương với các lực lượng chống phát xít:

“Cuộc Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới giai đoạn hiện lại là một bộ phận dân chủ chống phát xít... Vận mạng của dân tộc Đông Dương lại chung với vận mạng của nước Trung Quốc cách mạng và Liên bang Xô Viết,(1). Nhận thức rõ thời cuộc, đặt công cuộc giải phóng dân tộc của nước ta trong những bước phát triển của thời đại, của điều kiện lịch sử thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động kết nối mối quan hệ giữa lực lượng cách mạng trong nước với quân Đồng minh và từng bước phát huy mối quan hệ đó.

Đến năm 1942, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai bắt đầu bước vào giai đoạn cuối khi quân phát xít bắt đầu suy yếu trên các chiến trường. Tại châu Á, lực của quân Nhật bị giảm sút, phong trào giải phóng dân lộc và kháng chiến chống Nhật ở Đông Nam Á đang phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó Nguyễn Ái Quốc xúc tiến thiết lập mối quan hệ hợp tác với lực lượng quân Đồng Minh, trước tiên là với Trung Quốc bởi đây là một nước lớn trong khối Đồng Minh lại có vị trí gần với căn cứ địa Việt Bắc của cách mạng nước ta. Để thực hiện mục tiêu trên, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức cuộc gặp gỡ chính thức giữa Mặt trận Việt Minh với chính phủ Tưởng Giới Thạch để bàn bạc về quan hệ giữa hai bên trong cuộc đấu tranh chống Nhật giải phóng đất nước. Chuẩn bị cho chuyến đi ngoại giao này, Người đã chỉ đạo lập hai con dấu của "Việt Nam Độc lập Đồng minh" và ''Quốc tế phản xâm lược Việt Nam Phân hội". Từ thời điểm này, Nguyễn Ái Quốc chính thức lấy tên là Hồ Chí Minh với tư cách là đại diện Mặt trận việt Minh sang gặp chính phủ Tưởng Giới Thạch. Ngày 13- 8-1942, Hồ Chí Mình lên đường đi Trung Quốc: Sau hơn hai tuần đi bộ, đoàn ngoại giao của Mặt.trận Việt Minh đến được huyện Tĩnh Tây (Trung Quốc)... Nhưng ngay sau đó, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền địa phương của Tưởng bắt giam. Với tố chất của vị lãnh tụ vĩ đại, của một chiến sĩ cách mạng luôn tâm huyết, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích dân tộc, người đã biến khó khăn là thuận lợi, biến “nguy” thành ''an'' để cách mạng đạt được những mục tiêu đề ra.

Trước sự kiện Hồ Chí Minh bị quân đội Tưởng bắt giam, Hội Cứu quốc ở vùng căn cứ địa Việt Bắc và nhiều Việt kiều ở Hoa Nam đã gửi hàng trăm bức thư đòi lính phủ Tưởng Giới Thạch trả tự do cho Hồ Chí Minh. Vào năm 1943, quân Đồng minh bắt đầu phản công phát xít Nhật mạnh mẽ. Trước khả năng quân Anh, Mỹ sẽ đổ bộ vào Đông Dương, Chính phủ Tưởng Giới Thạch chủ trương thực hiện gấp kế hoạch ''Hoa quân nhập  Việt". Để thực hiện kế hoạch này, Chính phủ Tưởng Giới Thạch xác định trước tiên phải củng cố lại Ban lãnh đạo “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội” (“Việt cách”) và tìm mọi cách đưa Việt Minh vào. Do đó, ngày 10-9-1943, Chính phủ Tưởng Giới Thạch mà đại diện 1à Trương Phát Khuê đã ra lệnh thả tự do cho Hồ Chí Minh và mời Người tham gia Ban trù bị Đai hội toàn quốc của “Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội”. việc Chính phủ Tưởng Giới Thạch chấp nhận sự hiện diện của lực lượng cánh tả của cách mạng Việt Nam trong “Việt Cách” theo Hồ Chí Minh mặc dù không ảo tưởng chính trị đối với chính quyền Tưởng Giới Thạch nhưng đây là dấu hiệu thuận lợi cho lực lượng cách mạng của ta trong việc từng bước nối quan hệ với quân Đồng minh nên Hồ Chí Minh đã đồng tham gia Ban trù bị Đại hội của Việt Cách. Sau một số lần họp, Hội nghị trù bị vẫn chưa thống nhất được thời gian họp và số đại biểu Việt Minh tham gia Đại hội. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã trở thành nhân vật có những sáng kiến lớn trong việc tìm ra lối thoát cho những bế tắc trên khi Người đề nghị: họp hội nghị đại biểu hải ngoại trước để thống nhất các lực lượng cách mạng của Việt Nam tại nước ngoài đồng thời để thực hiện trù bị cho Đại hội của Việt Cách, Đại hội chính thức sẽ được tiến hành sau cuộc họp đại biểu hải ngoại một năm, địa điểm họp tại khu giải phóng Việt Bắc. Sáng kiến này được Trương Phát Khuê tán thành và đề nghị Hồ Chí Minh là người chủ trì lập và triển khai kế hoạch.

Với những nỗ lực lớn, Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng vào thành công của Hội nghị đại biểu hải ngoại được tiến hành tại Liễu Châu (Trung Quốc). Tại Hội nghị này Hồ Chí Minh đã trình bày hai bản tham luận : “Về Phân hội quốc tế chống xâm lược của Việt Nam” và "Về các đảng phái trong nước'' thể hiện rõ quan điểm của cách mạng Việt Nam trong việc tham gia chống kẻ thù chung là chủ nghĩa phát xít. Qua Hội nghị này, Tưởng Giới Thạch đã chấp nhận để cho Đảng cộng sản Đông Dương và Việt Minh vào Mặt trận liên minh Trung - Việt chống phát xít. Từ mối quan hệ với Tưởng, cách mạng nước ta đã chính thức kết nối với sức mạnh của quân Đồng minh, hoà chung với sức mạnh của thời đại trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít, giành độc lập đối với các dân tộc thuộc địa.

Sau thắng lợi ở Hội nghị đại biểu hải ngoại, Tưởng Giới Thạch đã phải để Hồ Chí Minh về nước để tiếp tục lãnh đạo cuộc cách mạng. Nhưng thực tế cho đến ngày 9-8-1944, Trương Phát Khuê mới hoàn tất các thủ tục công nhận quyền tự do của Hồ Chí Minh và ngày 29-9- 1944, Hồ Chí Minh mới rời được Liễu Châu (Trung Quốc) về Cao Bằng để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng nhân dân ta.

Khi ở Liễu Châu, từ mối quan hệ với Trương Phát Khuê, Hồ Chí Mmh đã làm quen với một số sĩ quan của Mỹ trong tổ chức OSS (Offce Strategic Services – Tổ chức tình báo của Mỹ trong Chiến tranh thê giới thứ hai) và OWI (Offce of War Information - Tổ chức thông tin chiến tranh của Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai). Từ đó, mỗi quan hệ giữa Hồ Chí Minh với tướng Sênôn chỉ huy quân đoàn không quân của Mỹ ở chiến trường Tây Nam Trung Quốc đã được thiết lập. Nhằm phá thế độc quyền của chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp ở khu vực Đông Nam Á, tổng thống Rudơven đã đưa ra kế hoạch thiết lập một Hội đồng thác quản (trusteeship) cho Đông Dương. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã nhận định đây chính là sự bất lợi lớn cho Pháp và cũng chính là dấu hiệu thuận lợi cho cách mạng nước ta. Do đó, đẩy tới việc thiết lập mối quan hệ giữa Việt Minh với Mỹ được Người rất chú trọng và chủ động triển khai.

Vào đầu năm 1945, Hồ Chí Minh đã cùng viên trung uý phi công Shaw(2) đi Côn Minh (Trung Quốc). Thông qua chuyến đi này, Hồ Chí Minh đã gặp Saclơ Phen thuộc Tổ chức cứa trợ không quân Mỹ và gặp lại tướng Sênôn. Tổ chức cứu trợ không quân Mỹ hứa sẽ viện trợ cho Việt Minh vũ khí, điện đài, thuốc men, đồng thời phái một nhân viên người Mỹ đi cùng với Hồ Chí Minh giúp về kỹ thuật thu phát tin qua máy vô tuyến điện. Trước khi rời Côn Minh, thông qua Hồ Chí Minh, hướng Sênôn đã tặng lực lượng Việt Minh: 6 khẩu súng ngắn, đạn dược, thuốc men và tiền. Hồ Chí Minh thay mặt cách mạng nhận số lượng viện trợ trên (trừ tiền), gửi lời cảm ơn và tỏ sự mong muốn người Mỹ tiếp tục giúp đỡ cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Từ đây, mối quan hệ giữa cách mạng nước ta với lực lượng quân đội Mỹ đang làm nhiệm vụ của quân Đồng minh ở chiến trường châu Á - Thái Bình Dương đã đánh thức được thiết lập. Dưới sự thảo thuận của hai bên, ngày 16-7-1945, nhóm tình báo chiến lược Mỹ mang biệt danh ''Con Nai'' do thiếu tá Tônmát dẫn đầu đã nhảy dù xuống khu vực làng Kinh Lung (Tuyên Quang) và được lực lượng của ta bố trí đóng quân ở Tân Trào. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ xác định mục tiêu của quân Nhật để ngáy bay Mỹ phá huỷ và chuyển thông tin về Tổng hành dinh OSS, nhóm ''Con Nai" còn đẩy ngạnh việc giúp Việt Minh xây dựng hệ thống thông tin liên lạc và phối hợp với ta tiêu tiệt phát xít Nhật. Với tư cách là người chỉ huy nhóm “Con Nai” Thiếu tá Tômát đã tổ chức một đội du kích khoảng 50 chiến sĩ Việt có trang bị vũ khí thực hiện nhiệm vụ cắt đứt đường sắt sang Trung Quốc, phá huỷ tuyến giao thông Hà Nội - Lạng Sơn với mục tiêu ngăn cản sự di chuyển của quân Nhật sang Lạng Sơn, khóa đường sang vùng Hoa Nam trong trường hợp nếu Mỹ quyết lập căn cứ tấn công quân Nhật ở Bắc Việt Nam. Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ nêu trên,  Tômát đã thuyết phục được sở chỉ huy OSS ở Côn Minh tiếp tục viện trợ vũ khí cho Việt Minh bằng không quân với nhiều loại súng ngáy, súng côn 60, ba- đô-ka, súng máy Bren, 20 tiểu liên Tôm-xơn, 60 các bin (carbin), 4 súng trường M-1, 20 súng lục cùng ống nhòm(3).

Vào nổ đầu tháng 8 năm 1945, nhóm ''Con Nai" đã tổ chức huấn luyện cho các chiến sĩ Việt Minh cách sử dụng các loại vũ khí do Mỹ trang bị. Khi cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám nổ ra, lực lượng này còn trực tiếp tham gia giúp đỡ nhân dân một số tỉnh ở Việt Bắc khởi nghĩa giành chính quyền. Đặc biệt là trong cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Thái Nguyên, nhóm ''Con Nai" và Thiếu tá Tômát đã gia rất tích cực và góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giành chính quyền ở đây. Thiếu tướng Tômát từng tham gia góp ý kiến rất xác đáng vào phương án tác chiến khởi nghĩa giải phóng thị xã Thái Nguyên với bộ chỉ huy Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh Thái Nguyên tại cuộc họp hồi 22h ngày 19-8-1945 để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa của tỉnh(4). Trong tình thế cuộc đấu tranh giành chính quyền của nhân dân Thái Nguyên gặp khó khăn do quân Nhật cố thủ tại thị xã, Tônmát đã viết  một tối hậu thư gửi quân Nhật có tác dụng gây sức ép, hỗ trợ phong trào quần chúng, buộc phát xít Nhật phải đầu hàng vô điều kiện, ghành thắng lợi cho cách mạng...

Như vậy, những hoạt động tích cực của Hồ Chí Minh trong việc thiết lập mối quan hệ vôi quân Đồng Minh đã góp phần thiết thực vào việc chuẩn bị lực, tạo thế cho Cách mạng Tháng Tám. Động thái này còn là sự thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh đối với quá trình chuẩn bị đấu tranh giành chính quyền của dân tộc ta ở thời điểm này cần nắm bắt những diễn biến của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, từ đó tạo ra phương pháp luận cách mạng quan trọng trong việc tạo và chớp thời cơ giành thắng lợi cho cách mạng.

Nguồn Giáo dục lý luận. – 2008. – Số 8. – Tr. 9-12

Tìm hiểu vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chiến dịch Việt Bắc năm 1947

Chiến thắng Việc Bắc nhờ chủ trương đường lối sáng suốt của Đảng, tinh thần dũng cảm, kiên cường của quân và dân ta, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì đấu tranh ngoại giao để vãn hồi hoà bình. Mặc dù kháng chiến toàn quốc đã bùng nổ nhưng Người vẫn kiên trì tìm cách ngoại giao với Quốc hội và Chính phủ Pháp nhằm chấm dứt chiến tranh xâm lược của Pháp. Theo Người, nhân dân Việt Nam chỉ mong muốn: “Tự do, hoà bình và độc lập”. Người kêu gọi nhân dân và binh lính Pháp, nhân dân các nước đồng minh hãy tìm cách ngăn chặn bàn tay của bọn thực dân hiếu chiến Pháp. Trong thư gửi Chính phủ và nhân dân Pháp nhân dịp đầu năm mới 1947, Hồ Chí Minh viết: “Tôi kêu gọi nhân dân Pháp để chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn và năm 1947 mang lại nền hoà bình và tình hữu ái giữa nước  Pháp và nước Việt Nam”1

Từ ngày  1-1 đến ngày 1-10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 21 lần trực tiếp hoặc gián tiếp đề nghị Chính phủ Pháp thương lượng để chấm dứt chiến tranh.

Ngày 1-10-1947, Hồ Chí Minh lại gửi điện trả lời chi bộ Đảng Xã hội Pháp ở Sài Gòn, đề nghị Chính phủ Pháp giữ “tinh thần hữu hảo, sự tin cậy và sự hợp tác giữa hai dân tộc Việt – Pháp”. Đồng thời, chính phủ và nhân dân Việt Nam lúc nào cũng sẵn sàng chấm dứt cuộc xung đột”.

Đáp lại thực dân Pháp xua quân đánh vào căn cứ địa Việt Bắc. Vì vậy nhân dân Việt Nam buộc phải cầm súng chống lại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn Việt Bắc làm căn cứ kháng chiến hậu phương của cả nước. Trong lịch sử dân tộc ta có nhiều kinh nghiệm và xây dựng căn cứ địa hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Tháng 5-1945 từ Cao Bằng về Tuyên Quang, Người đã chọn Tân Trào (Tuyên Quang) làm căn cứ để lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự kiến trước thực dân Pháp sẽ quay lại xâm lược nước ta. Vì thế, trước khi về Thủ đô Hà Nội, Người đã chủ trương tiếp tục xây dựng, củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 11-1946, khi thực dân Pháp khiêu khích ở Hải Phòng và Hà Nội, Người gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi nếu địch mở rộng chiến tranh trên miền Bắc thì Hà Nội giữ được bao lâu? Đại tướng thưa rằng Giữ được một tháng, các thành phố khác ít khó khăn hơn, vùng nông thôn nhất định ta giữ được. Suy nghĩ trong giây lát, Người nói “Ta lại trở về Tân Trào”. Sau đó, Người đã cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Trong thời gian ngăn, các cơ sở chính trị của ta được củng cố, hoàn thiện. Hệ thống thông tin liên lạc, phòng gian bảo mật và lực lượng vũ trang cũng được xây dựng và củng cố đồng bộ. Hơn 42.000 tấn máy móc, nguyên liệu để sản xuất vũ khí và 20.000 tấn muối đã đưa lên Việt Bắc. Trước và sau ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cơ quan lãnh đạo của Đảng và Chính phủ di chuyển lên Việt Bắc an toàn.

Sau khi vồ hụt cơ quan lãnh đạo của ta ở Hà Nội cuối năm 1946, thực dân Pháp vẫn nuôi mộng bắt bằng được cơ quan lãnh đạo cao nhất của cuộc kháng chiến. Ỷ vào binh hoả lực mạnh, sức cơ động cao thực dân Pháp định nhảy vào Việt Bắc bắt Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhưng núi rừng Việt Bắc đã trở thành mồ chôn giặc Pháp. Đúng như Hồ Chí Minh nhận định: Căn cứ địa Việt Bắc có thế chiến lược lợi hại, tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Nhờ vậy, mỗi chiến khu, mỗi tỉnh, thậm chí huyện cũng có thể xây dựng được căn cứ địa, căn cứ du kích. Tiêu biểu như các căn cứ Lang Tài (Bắc Ninh), Kim Môn (Hồng Quảng), Bác Ái (Ninh Thuận). Các làng chiến đấu như: Cự Nẫm, Cảnh Dương (Quảng Bình), Chi Lăng (Lạng Sơn), Xi Tơ (Tây Nguyên), Cao Pha (Tây Bắc), Nguyên Xá (Thái Bình). Căn cứ địa Việt Bắc là một đóng góp lớn của Hồ Chí Minh. Hậu phương Việt Bắc đã góp phần tạo lên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Tư tưởng chiến lược chính trị, quân sự thiên tài Hồ Chí Minh toả sáng trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. Thiên tài đó đã được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam kiêm nghiệm. Trước Cách mạng tháng Tám, Người đã quyết định nhiều vấn đề quân sự quan trọng như hoãn cuộc khởi nghĩa Cao - Bắc - Lạng, chỉ thị xây dựng Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và chỉ đạo tổng khởi nghĩa năm 1945.

Trong những năm củng cố chính quyền cách mạng sau tổng khởi nghĩa, Người lo tổ chức chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang và kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng BCHTƯ Đảng vạch ra đường lối Kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Lúc đầu thế địch mạnh muốn nhanh chóng bóp chết lực lượng vũ trang nhỏ bé, trang bị thô sơ của ta. Người chỉ đạo: Nhanh chóng tổ chức đánh du kích giam chân địch trong các thành phố, tiêu thổ kháng chiến tổ chức tản cư lên vườn không nhà trống; chuyển toàn bộ đất nước từ thời bình sang thời chiến.

Mùa hè 1947 từ khu V trở ra ta có 12 vạn quân trong đó chỉ có 1/4 chiến sĩ được trang bị súng. Riêng chiến trường Việt Bắc, ta chỉ có 20 tiểu đoàn quân chủ lực. Trong khi đó thực dân Pháp tập trung gần 30 tiểu đoàn tinh nhuệ có phi pháo mạnh yểm trợ. Người phân tích: Âm mưu của địch là hội quân ở Bắc Cạn tạo thành cái ô bọc lấy Việt Bắc, hai cánh quân tạo thành hai gọng kìm. Một theo đường số 4 ở phía Đông; hai theo đường sông Hồng, sông Lô ở phía Tây kẹp chặt lấy Việt Bắc. Chúng chỉ mạnh ở hai gọng kìm Đông và Tây. Nếu ra cùng lực lượng bao vây chặt và tiêu hao quân dù ở Bắc Cạn tập trung lực lượng kiên quyết phản công tiêu diệt các cánh quân địch ở Đông và Tây thì cái ô sẽ cụp xuống thành cái ô rách.

Ta không chủ trương đem quân chủ lực ra chọi nhau với địch mà dùng lực lượng nhỏ thực hiện phương châm: “đại đội độc lập tiểu đoàn tập trung”, phục kích đánh địch trên các địa hình hiểm trở. Bằng phương thức đó, ta đã vô hiệu hoá sức mạnh phi pháo và đội quân vừa đông vừa thiện chiến của địch. Rừng Việt Bắc trở thành “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.

Cuộc tấn công lên Việt Bắc của Pháp bị thất bại nặng nề làm cho chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng bị phá sản. Buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta – đánh lâu dài.

Kỷ niệm một năm ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “…bọn quân phiệt thực dân khoe miệng rằng chóng thì dăm tuần, chậm th2i ba tháng chúng sẽ chinh phục được ta”. Đến nay, “Lực lượng của chúng cũng như mặt trời vào lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ… lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến, không có thoái”2

Thắng lợi Việt Bắc, Thu – Đông 1947 là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện của Đảng ta, thể hiện rực rỡ nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài tình, sắc bén, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi này của quân và dân ta đã làm cho quân Pháp từ chủ động sang thế bị động.

Tìm hiểu vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chiến thắng Việt Bắc, Thu – Đông 1947, chúng ta càng thấy: Tư tưởng quân sự của Người, một trong những nền tảng tư tưởng quân sự của Đảng ta, đã được phát triển trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954).

1, 2. Hồ Chí Minh Toàn tập, CTQG, H, 1995, T.5, tr.3, 313.

Nguồn Lịch sử Đảng. -1997. –Số 11. –Tr. 25-26, 32.

Những ngày đầu Bác Hồ chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Bác về Vạn Phúc vào một đêm đông, trên chiếc xe Xi-trô-oen màu đen, mặc áo dạ, do đồng chí Trần Đăng Ninh dẫn đường, gặp đồng chí Nguyễn Tấn Phúc ở đầu làng. Đến nhà ông Cả Dương, Bác ở trong một căn buồng nhỏ trên gác hai, bên ngoài là ba gian rộng rãi hơn. Ở đây, Bác thường gặp gỡ, trao đổi công việc với các đồng chí trong Ban thường vụ Trung ương Đảng, như đồng chí Trường Chinh, đồng chí Võ Nguyên Giáp... và viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, 6 giờ 45 phút tối ngày 19-12-1946, sau khi đã họp với Ban thường vụ Trung ương Đảng mở rộng, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh rời làng Vạn Phúc chuyển về thôn Vân Xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây).

Thôn Vân Xá, còn có tên gọi Xuyên Dương, cách Hà Nội chừng 30km, nằm ven bờ con sông Đáy (thời khởi nghĩa Hai Bà Trưng gọi là sông Hát), có một cây đa rất to, 7 rễ phụ tỏa xuống đê sông Đáy, trông rất hùng vĩ. Dân trong vùng quen gọi là "Cây đa bảy rễ". Chính ô tô chở Bác, khi về đến "Cây đa bảy rễ" thì dừng lại, ẩn tại đó để Bác về ở nhà anh Nguyễn Huy Chúc, một gia đình khá giả, có lòng yêu nước. Đồ đạc Bác mang theo gồm chăn màn có từ lúc ở Hà Nội, một chiếc ba lô vuông đựng áo quần. Đặc biệt là cái máy chữ Hermes Baby, có từ ngày Bác ở Trung Quốc về nước (năm 1941), cũng được Bác mang theo, Bác ở nhà Chúc từ đêm 19-12-1946 đến ngày 13-1-1947. Tại ngôi nhà này. Bác đã viết Lời kêu gọi gửi nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp, nhân dân các nước đồng minh chống phát xít để tố cáo thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, viết tài liệu "Câu hỏi và trả lời" nhằm hướng dẫn cán bộ khi vận động quần chúng: kháng chiến bao giờ thắng lợi? Toàn dân kháng chiến nghĩa là thế nào?.... viết Thư gửi kiều dân và tù binh Pháp nhân lễ Nô-en: đồng thời gửi đồng bào công giáo kêu gọi lương, giáo đoàn kết để kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi, viết Lời kêu gọi đồng bào cả nước nhân ngày đầu năm dương lịch 1947, viết "Một vài ý kiến về các ủy ban kiến thiết, động viên dân chúng tăng gia sản xuất". Viết Thư nhắc tổ chức các ủy ban tản cư, viết Thư gửi Chinh phủ Pháp, tướng Lơ Cléc yêu cầu chấm dứt chiến tranh, viết Thư gửi Mu-tê, người đã cùng Bác ký Tạm ước ngày 14 - 9-1946" đề nghị gặp gỡ để giải quyết cuộc chiến tranh, viết Thư khen các chiến sĩ bị thương trên các mặt trận đánh quân Pháp, viết Thư gửi bác sĩ Nguyên Đình Tụng, Giám đốc Sở y tế Bắc Bộ, thăm hỏi về việc con trai bác sĩ đã hy sinh trong chiến đấu với quân pháp, viết Thư gửi Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp tuyên bố lập trường 7 điểm của Chính phủ ta về chấm dứt chiến tranh, viết Thư gửi lãnh tụ và nhân dân các nước Trung Hoa Ấn Độ, Mi-an-ma và toàn thể các nước Á Đông, viết Thư kêu gọi nhân dân cả nước nhân ngày Tết Đinh Hợi, viết Thư cho đồng chí Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ nói về âm mưu mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp... Cũng tại đây, Bác đã lập kế hoạch tổ chức cuộc họp Hội đồng Chính phủ mở rộng tại một địa điểm trong tỉnh Hà Đông bàn những việc trọng đại để đưa cả nước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.

Tối ngày 13-1-1947, Bác cho mời vợ chồng anh Chúc vào gặp. Bác bế đứa con gái đầu lòng của anh chị mới sinh, hỏi thăm sức khỏe chị Chúc, dặn chị uống đều đặn chai rượu canh-ki-na Bác tặng. Anh chị Chúc xin Bác đặt tên cho con là Minh. Bác đồng ý và cho thêm chữ Kim để đệm. Kim là tên đồng chí giúp việc cho Bác lúc đó. Bác nói lời tạm biệt với anh chị Chúc. Đồng chí Trần Đăng Ninh đưa Bác ra xe, đi về thôn Phú Đa, xã Cần Kiệm, huyện Thạch Thất.

Đoàn của Bác lúc đó có 9 người (có hai đồng chí nữ), được cải trang là toán người từ Hà Nội tản cư, về đến thôn Phú Đa khoảng 10 giờ đêm 13-1-1947. Ngôi nhà Bác ở là một nhà tranh tre đang làm dở, chưa dùng, có 9 gian, tường đắp đất ba phía, còn một để trống. Bác được bố trí ở gian đầu hồi bên trái, có giường lót dạ. Gia chủ chỉ biết người lớn tuổi nhất, trông như một lão nông là Cụ Cả. Bác ít ra ngoài, hàng ngày vẫn làm việc theo giờ giấc khẩn trương, ăn cơm cùng với cả đoàn.

Những ngày ở Phú Đa, Bác đã viết Thư gửi đồng chí Hoàng Hữu Nam, nhắc nhở việc tiếp tế cho anh em ta trong vùng địch, nhắc nhở viết văn bản phải ngắn gọn, không dùng chữ Tây, viết Thư kêu gọi “tiêu thổ kháng chiến" ký sắc lệnh thành lập Nha thể dục trung ương, sắc lệnh cử đồng chí Nguyễn Sơn làm Cục trưởng Cục Quân huấn, sắc lệnh sửa đổi thời hạn giam cứu, viết Thư gửi các chiến sĩ Trung đoàn Thủ Đô...

Bác ở đây đúng vào dịp nhân dân ta đón Tết Đinh Hợi năm 1947. Những ngày Tết, tâm trạng Bác vui vẻ. Đêm giao thừa, Bác lên xe đi đến đài Tiếng nói Việt Nam, đặt trong hang núi Chùa Trầm, đọc thơ chúc mừng năm mới, cùng đón năm mới với cán bộ, nhân viên của đài. Sáng mồng một Tết, Bác đi chúc Tết các gia đình trong thôn Phú Đa. Tối đến, Bác tiếp các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh... đến chúc Tết.

Ngày 2-2-1947, sau 19 ngày ở thôn Phú Đa, Bác lại tạm biệt nhân dân ở đây lên đường tiếp tục đi chỉ đạo toàn dân, toàn quân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến ngày toàn thắng.

Nguồn Sự kiện & nhân chứng. – 2004. – Số 129 (tháng 9). – Tr. 3, 15

Nguyễn Ái Quốc với sự ra đời của báo Việt Nam độc lập

Hồ Chí Minh ra nước ngoài năm 1911 là để xem nước Pháp và các nước khác họ làm thế nào, rồi sẽ trở về giúp đồng bào, chứ không phải đi học làm báo. Hành trang Người mang theo là lòng yêu nước thương dân và khát vọng giải phóng đồng bào khỏi gông cùm nô lệ. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh chủ yếu thực hiện những cuộc hành trình dài ngày từ Pháp qua châu Phi đến Anh và nhiều nước khác. Tại những nơi Người tới, bằng việc quan sát, tìm hiểu và tự đặt ra cho mình nhiều câu hỏi từ thực tế, Hồ Chí Minh càng ngày càng nhận ra bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, hoạt động của Hồ Chí Minh đã tiến lên một bước. Người đến Hội nghị Véc-xây cùng nhiều đoàn đại biểu thay mặt cho các dân tộc bị áp bức để đòi độc lập và tự do, trong đó có tự do báo chí. Tự do báo chí và tự do ngôn luận trong Yêu sách của nhân dân An Nam năm 1919 là mốc mở đầu cho hành trình báo chí của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, thời điểm đó, nhận thức của Hồ Chí Minh về tự do báo chí cũng chỉ mới là cảm tính mà thôi. Điều quan trọng là từ nhận thức những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc, Hồ Chí Minh thấy rõ muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Những nhận thức đó đã đánh dấu một giai đoạn mới trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh. Trong những mẩu chuyện về đó hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên kể lại rằng, lúc bấy giờ ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì Tổ quốc, nhưng ông Nguyễn lúc đó ''rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng''. Người đã tự bỏ tiền ra in những bản Yêu sách tám điểm thành những tờ truyền đơn đem phát trong các cuộc mít tinh ở Pháp, cho tất cả những Việt kiều và những người Việt đi lính Pháp. Người gửi cả những truyền đơn về Đông Dương. Những hoạt động đó có tác dụng nhất định nhưng không cơ bản và lâu dài. Người bắt đầu suy nghĩ tới hoạt động báo chí. Nhưng hoạt động như thế nào khi ''ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp" để viết báo Pháp''. Trần Dân Tiên Kể lại rằng, ''nhược điểm về tri thức chịu. Nhất là khi nhờ ông Phan Văn Trường viết nhưng ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy ông Nguyễn bắt tay vào học làm báo''. Như vậy, động cơ làm báo đầu tiên của Hồ Chí Minh là để tuyên truyền cách mạng, tố cáo tội ác thực dân Pháp.

Người đến tòa báo ''Dân chúng” do cháu ngoại C.Mác, nghị viên của Quốc hội Pháp, là ông Giăng-lông-ghê làm chủ nhiệm. Tờ ''Dân chúng" không những đã đăng những lời yêu cầu của bản Yêu sách tám điểm mà Chủ nhiệm tờ báo đó còn khuyến khích Nguyễn Ái Quốc viết bài để làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt Nam. Mặc dù những người Pháp như ông Lông-ghê hay chủ báo ''Đã sống thợ thuyền'' rất tốt và rất đáng mến nhưng điều đó chỉ hỗ trợ một phần, giúp Nguyễn Ái Quốc những ngày đầu chập chững trên con đường làm báo.

Vấn đề có ý nghĩa quyết định là sự nỗ lực, cố gắng, quyết tâm của bản thân. Xác định rõ mục đích viết báo để làm gì có ý nghĩa hết sức quan trọng đến cuộc đời làm báo của Nguyễn Ái Quốc. Người nhận rõ ''tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hóa làm cho dân ngu, lấy pháp luật buộc dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm cho dân nghe đến hai chữ cách mệnh thì sợ rùng mình. Vì vậy, cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ; phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải bày sách lược cho dân". Báo chí sẽ góp phần rất quan trọng vào giải quyết những mục đích đó.

Cũng theo Trần Dân Tiên, ''ông Nguyễn bắt đầu làm báo rất khó khăn'' vì kém tiếng Pháp, thiếu văn Pháp. Người đã vượt qua khó khăn đó bằng cách vừa làm vừa học, tự học và học những nhà báo người Pháp có kinh nghiệm. Người kiên nhẫn bắt đầu từ những động tác nhỏ như viết hai bản, gan cho tòa báo một bản, giữ lại một bản, sau khi bài được đăng thì so sánh với bản gốc và sửa những chỗ viết sai. Những bài báo đầu tiên Người viết ngắn, chỉ năm, sáu dòng. Khi thấy viết đã bớt sai lầm, được sự đồng ý của chủ bút, Người viết dài hơn một tí, độ bảy, tám dòng. Dần dần, Người có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Cứ như vậy, tùy theo chủ đề, Người có thể viết dài, viết ngắn Người phải học viết rút ngắn, vì ngắn về dòng nhưng phải bảo đảm về nội dung và chất lượng bài báo. Bằng sự nỗ lực của bản thân, trên cơ sở xác định rõ mục đích và cách viết, chỉ một thời ngắn, Nguyễn Ái Quốc đã vào làng báo. Từ tháng 8.1919, Người đã có bài trên báo Nhân đạo và tiếp theo Người viết nhiều bài chó báo Dân chúng, Đời sống công nhân...

Hội Liên hiệp thuộc địa ra đời tháng 6.1921 tập hợp tất cả những người quê thuộc địa sống trên đất Pháp nhằm mục đích thảo luận và nghiên cứu những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc địa, đi tới sự nghiệp giải phóng bằng sự nỗ lực của chính bản thân những người thuộc địa. Hội quyết định dùng báo chí và ngôn luận để tranh thủ dư luận đồng tình ủng hộ những hoạt động của Hội và cuộc đấu tranh của nhân dân các thuộc địa chống áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân.  Nguyễn Ái Quốc, nhân danh đại biểu Đông Dương, làm nghề thợ ảnh, được bầu là một thành viên của Ban Chấp hành. Sau khi Hội thành lập, Ban Chấp hành quyết định xuất bản tờ báo lấy tên Le Paria. Báo ra số 1, ngày 1.4.1922. Số cuối cùng là số 38, tháng 4.1926. Nguyễn Ái Quốc có quan hệ mật thiết với báo Le Paria. Trong thời kỳ đầu, từ số đầu cho đến số 14, Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, làm cả việc phát hành và đi bán báo. Sau khi rời Hội liên hiệp thuộc địa, Người đến Liên Xô rồi đi Trung Quốc, nhưng vẫn gửi bài về đăng báo.

Trước khi về nước, Hồ Chí Minh đã có một sự nghiệp báo chí đồ sộ, không chất ở số lượng các bài viết trên nhiều báo chí nước ngoài, mà còn sáng lập và tham gia sáng lập nhiều tờ báo gây tiếng vang lớn, mở đầu nền báo chí cách mạng Việt Nam.

2. Cần có một tờ báo làm công cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức và là đạo nhân dân

Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước. Tháng 5.1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị, ''mỗi đảng bộ địa phương phải tìm cách ra báo chí tuyên truyền, ít nhất là các ban tỉnh ủy phải có ban tuyên truyền chuyên môn xuất bản báo riêng ở trong tỉnh để tuyên truyền cho kịp thời'', Nguyễn Ái Quốc quyết định cho xuất bản báo Việt Nam độc lập gọi tắt là Việt Lập. Việt Nam độc Lập lúc đầu là cơ quan tuyên truyền của tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Cao Bằng, từ tháng 6.1942 là của hai tỉnh Cao Bằng, Bắc Bạn và từ tháng l.1944 là của ba tỉnh Cao Bằng - Bắc Cạn - Lạng Sơn (Cao - Bắc - Lạng).

Với kinh nghiệm của hơn hai mươi năm làm báo ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc triển khai một cách cụ thể ở địa bàn các dân tộc miền núi. Người hiểu rõ muốn đưa cách mạng đi tới thắng lợi thì cần phải tuyên truyền, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo nhân dân, và cùng với tuyên truyền miệng thì báo chí là phương tiện tuyên truyền đọc tốt nhất. Nhưng không phải cứ ra được báo là hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền. Kinh nghiệm ngược trong cuộc đời làm báo của Bác cho thấy để ai cũng thích đọc báo và có hiệu quả thật sự thì tất cả mọi khâu từ việc xác định mục đích, nội dung, đối tượng, cách viết, cách làm, cách phát hành, tóm lại là từ những người viết báo đến các khâu khác không thể rập khuôn máy móc mà phải luôn luôn sáng tạo, phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Kể lại câu chuyện làm báo Việt Nam độc lập với Đại hội lần thứ hai Hội Nhà báo Việt Nam (16.4.1959), Bác nói: ''Theo lời dạy của Lê nin: tờ báo là công cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức và lãnh đạo. Cho nên mình cố gắng ra một tờ báo ngay và phải làm rất bí mật vì luôn luôn có mật thám của Pháp, Nhật và bảo Đại rình mò. Điều kiện sinh hoạt thì bữa đói, bữa no. Làng báo thì phải có đá in. Mấy đồng chí đã đi lấy trộm mấy tấm bia đá rồi mài mất mấy ngày mới thành bản in. In thì phải viết chữ trái lên đá, thế là có một đồng chí phải hì hục học tập viết chữ trái. Mấy số báo đầu, ba bốn anh em cùng làm, nhưng in cứ toe toét, chỉ in được ít và xấu xí Nhưng về sau cứ tiến bộ dần, mỗi lần in được 300 số. Phải đặt bia đá ''nhà in'' ở ba chỗ khác nhau. Khi động chỗ này thì chạy đến chỗ khác mà in và báo vẫn ra đúng kỳ. Địch chịu không làm gì được.

Vấn đề giấy cũng gay. Lúc bấy giờ ai mua nhiều giấy, địch cũng nghi và theo dõi. Các chị em đi chợ mua năm, mười tờ, nói dối là mua cho con cháu học, rồi góp lại để in báo.

In bản đá muốn sửa chữa thì phải dùng axít. Mà axít thì mua đâu được? Có đồng chí nghĩ ra cách dùng chanh thay cho a xít, chị em lại giúp mua chanh để ủng hộ báo.

Còn việc phát hành: để báo ở các hang đá bí mật. Các đồng chí phụ trách cơ sở Việt Minh cứ đến đó mà lấy. Báo bán hẳn hoi, chứ không biếu.

Thế là mọi việc đều dựa vào quyết tâm của mình, dựa vào bực lượng và sáng kiến của quần chúng''.

Làm báo trong mỗi một giai đoạn cách mạng, đáp ứng yêu cầu của mỗi một đối tượng bạn đọc có những thuận lợi, khó khăn riêng. Thời kỳ Bác làm báo ở nước ngoài thì khó khăn lớn nhất ở giai đoạn đầu là vốn văn hóa phương Tây. Đi vào cụ thể là vốn ngoại ngữ, rồi nghiệp vụ báo chí, đối tượng phong phú, trình độ học vấn, nghề nghiệp cao thấp khác nhau. Làm báo Việt Nam độc lập thì khó khăn lớn nhất là trình độ văn hóa của các đối tượng chủ yếu là đồng bào miền núi rất thấp; khó khăn về cơ sở vật chất, nghiệp vụ báo chí, kẻ thù theo dõi... Đề ra được báo Việt Nam độc lập là cả một sự khó khăn, gian khổ, thiếu thốn. Phải tìm hiểu kỹ trình độ, phong tục tập quán của đồng bào. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: ''Vì khuôn khổ tờ báo nhỏ, chữ, theo chỉ thị của Bác, lại phải viết to để đồng bào đọc dễ dàng, nên các bài viết phải rất ngắn. Có lần, tôi ở tĩnh Tây về, Bác phân công viết một bài về phong trào phụ nữ cho báo Việt Lập. Bác nói:

- Chú viết đúng một trăm chữ, viết hơn thì không có chỗ đăng đâu.

Tôi ngồi viết, cảm thấy khó quá. Thời gian qua ở Tĩnh Tây, chúng tôi cũng ra báo. Cũng chỉ là báo in thạch, nhưng giấy sẵn, khuôn khổ tờ báo rộng, bài viết thoải mái chứ không hạn chế như thế này.

Thấy tôi ngồi viết khó khăn, Bác cười rồi bảo:

- Báo của các chú có gửi về nhưng mình không xem hết, mà ở đây cũng không mấy ai xem. Báo của các chú văn hay, chữ nhiều nhưng khó đọc, và có đọc được cũng không mấy ai hiểu. Báo Việt Lập tuy đơn giản, nhưng dễ đọc, dễ hiểu.

Về sau có dịp đi công tác ở các địa phương, tôi mới thấy hết tác dụng rất to lớn của tờ báo; đồng bào khắp các nơi đều rất hoan nghênh báo Việt Lập.

Cao Hồng Lĩnh, trong hồi ký ''Mãi mãi đi theo con đường của Người” kể: ''Có hôm, một số đồng chí được Bác gọi đến bàn việc chuẩn bị ra báo ''Việt Nam độc lập''. Lúc đó, một số anh em đã từng viết báo công khai vào loại giỏi nhưng phải viết bài cho tờ báo khuôn khổ hẹp, phục vụ đồng bào thiểu số thì anh em lại lúng túng. Bác bảo muốn biết bài mình viết đồng bào có hiểu không thì cứ đọc cho đồng chí Thế An, nếu đồng chí Thế An bảo được là được Đồng chí Thế An 1à một trong 43 người theo đoàn từ biên giới về đây, đồng chí là người Tày học ít, rất hiền lành, ít nói. Nhờ Bác hướng dẫn anh em viết những bài báo phù hợp với trình độ của người đọc ở quanh vừng''.

Bác Hồ không chỉ là người chủ trương và tổ chức cho tờ báo ra đời mà Người còn tham gia nhiều công việc trực tiếp có ý nghĩa. Vì Cao Bằng còn 90% dân số mù chữ và trong cán bộ cũng còn nhiều đồng chí chưa biết chữ, Bác chủ trương: ''Phong trào Việt Minh tới đâu, tổ chức học văn hóa tới đó. Người biết dạy người không biết, người biết nhiều dạy người biết ít''. Bác còn giao cho đồng chí Cao Hồng Lĩnh soạn bộ vần dạy chữ theo lối mới. Bộ này được biên tập thành hơn 30 bài, cứ học hết số bài này là có thể đọc viết được. Đồng chí Cao Hồng Lĩnh làm bài hát vận động bà con anh em bỏ lối học cũ theo lối học mới. Ngoài ra còn có thơ ca động viên phong trào học chữ. Nhiều nơi, già trẻ, gái trai đều học, học ban đêm, học buổi trưa, ở những làng xã Việt Minh hoàn toàn như Pác Bó, Nà Mạ, Nà Sắc, Đào Ngạn, ta mở trường công khai, các cháu cắp sách đến trường học ở trong rừng. Việc dạy chữ theo lối học mới có tác dụng hỗ trợ rất lớn cho việc đọc báo Việt Nam độc lập; ngược lại, việc đọc báo đã củng cố việc học chữ và nâng cao trình độ hiểu biết cho bà con. Trong thời gian ở Cao Bằng, Bác Hồ trực tiếp viết nhiều thơ ca cách mạng như Lịch sử diễn ca, Mười điều của chương trình Việt Minh, Địa dư Bắc kỳ, Địa dư Cao Bằng, các bài cho thanh niên, phụ nữ, nông dân, phụ lão, thiếu nhi, binh sĩ cứu quốc,v.v… được in trên báo hoặc in thành sách lưu truyền trong nhân dân. Vừa chỉ đạo trực tiếp, Nguyễn Ái Quốc vừa tham gia viết bài, chữa bài, vẽ tranh minh họa, có khi làm cả việc mấy tin và in báo. Đồng chí Lê Quảng Ba kể lại, khi đồng chí Vân Trình người đảm nhiệm việc in báo, viết bản thạch bị ốm, lo báo không ra đúng kỳ hạn, ''Bác đã cặm cụi ngồi viết thay đồng chí Vân Trình''.

Kể về những ngày đầu làm báo vất vả, Bế Văn Khai nhớ lại: ''Lần đầu chữa rồi lại hỏng, hỏng rồi lại chữa, mấy Bác cháu làm toát mồ hôi hai ngày mà chỉ được 16 số báo... Về sau có kinh nghiệm, mỗi lần in được 300 số, vừa tốt vừa nhanh''.

Cuối cùng thì báo Việt Nam độc lập cũng đã ra đời thành công Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của tờ báo từ khi ra số 1 (1.8.1941) đến số 36 (8.1942). Sự ra đời của tờ báo là một trong những hoạt động tích cực, có hiệu quả và ý nghĩa văn hóa, chính trị rộng lớn, sâu xa. Qua nội dung các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã giáo dục cán bộ, nhân dân, các hội viên Cứu quốc quyết tâm giành độc lập, tự do. Để đạt được mục đích đó, báo có 4 mục chính: - Những câu tuyên truyền in trên đầu trang nhất; - Xã luận; - Tin trong nước và thế giới; - Vườn văn. Ngoài ra còn có mục ''ủng hộ báo'' nhằm biểu dương những người có thành tích, và giới thiệu một số sách do Việt Minh xuất bản.

Lời mở đầu bài Xã luận đăng số 1 viết: ''Tây cốt làm cho dân ta ngu, làm cho dân ta hèn. Ngu thì phải hèn. Ta ngu hèn thì nó dễ trị, dễ ăn hiếp, dễ bóc lột''.

Sau khi vạch tội ác ''làm cho dân ngu để dễ trị'' của Pháp, Nhật, Xã luận nói rõ mục đích: ''Báo Việt Nam độc lập cốt làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật, làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng, tự do”.

Đáng chú ý là tờ báo có mục thơ ca. Trong 36 số, có 36 bài thơ hoặc ca, thì 31 bài in dưới một tên chung: Vườn văn. Những bài thơ ca này phần lớn tác giả Nguyễn Ái Quốc sử dụng lối thơ lục bát, thất ngôn, dựa theo âm điệu, phong cách của Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm..., 1à những vần thơ quen thuộc với nhân dân ta. Nhờ đó mà tờ báo được quần chúng yêu mến, quý trọng, nhiều bài văn vần được quần chúng chép lại, truyền tay nhau học thuộc lòng với sự trìu mến, yêu quý. Lúc đó, quần chúng chỉ biết quý trọng tờ báo, vì nó đã thiết thực giúp cho cuộc sống và đấu tranh của mình, giải đáp trúng những vấn đề mình yêu cầu. Bế Văn Khai nhớ lại: ''Đồng bào quý tờ báo như vàng, mỗi tổ Việt Minh chỉ được vài tờ. Tờ báo lại làm nảy nở một phong trào học quốc ngữ. Già cũng học, trẻ cũng học. Các em đi chăn trâu, các chị lấy rau lợn đều mang theo một cuốn vở nhỏ. Hễ gặp cán bộ đi ngang là họ đón lại học thêm mấy chữ”.

Nhân dân coi tờ báo Việt Nam độc lập như người thầy của mình. Tại Đại hội lần thứ hai Hội Nhà báo Việt Nam, Bác nói: ''Đồng bào địa phương rất thích đọc báo, vì báo viết điều gì cúng thấm thía với họ. Đồng bào còn tự động tổ chức những tổ đọc báo và bí mật đưa tin tức cho báo. Đồng bào lại tìm mọi cách tuyên truyền cho 1ính dõng đọc báo để làm ''binh vận''.

Cùng với quyết tâm, thời gian, kinh nghiệm và dựa vào lực lượng của quần chúng, về sau báo Việt Nam độc lập mỗi tháng ra ba kỳ, mỗi kỳ hơn 400 số. Báo phát hành trong phạm vi vài ba tỉnh, số lượng không đủ đáp ứng yêu cầu của quần chúng trong khi cơ sở cứu quốc mở rộng nhanh chóng. Tuy nhiên, tờ báo có ý nghĩa ''gieo mầm văn hóa'' ở một số tỉnh địa đầu của Tổ quốc, đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám. Nó 1à một hình mẫn của báo chí cách mạng nói chung, báo chí địa phương nói riêng, trong điều kiện xuất bản bí mật; đồng thời cũng để lại nhiều kinh nghiệm quý báu có giá trị về lý luận và thực tiễn cho báo chí cách mạng ngày nay kể cả ở trung ương và địa phương.

Nguồn Lý luận chính trị và truyền thông. – 2011. – Số tháng 3. – Tr. 41-45

Người lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt thác ghềnh

Đây lại là một ngày vui lớn nữa đang đến với Bác, đang đến với cách mạng Việt Nam.

Mới đêm nào còn ngồi bên chiếc giường tre, trong căn lán nhỏ, những ngày Bác mệt nặng tại Tân Trào. Vào những giây phút đó mới thấy hết được tấm lòng khát khao cháy bỏng của Bác đối với nền độc lập tự do của dân tộc. Không phải chỉ ở những lời Bác dặn dò về công tác cán bộ, cách giữ vững phong trào, "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do”. Tấm lòng của Bác còn hiện lên rất rõ qua mỗi cử chỉ nhỏ, qua cái nhìn khi Bác chợt tỉnh giữa những cơn sốt, qua sự đấu tranh với bệnh tật hiểm nghèo để giành từng phút, từng giây cho cách mạng.

Theo lời hiệu triệu của Đảng, của Bác, suốt mấy ngày nay, cả dân tộc ta từ Bắc chí Nam đã vùng dậy với một sức mạnh như triều dâng, thác đổ. Tại Hà Nội, quần chúng cách mạng đã vượt qua hàng rào sắt để xông vào chiếm Bắc Bộ phủ. Đồng bào già, trẻ, gái, trai, lớn, bé đã siết thành đội ngũ, giương cờ Việt Minh, tiến vào trước họng đại bác xe tăng Nhật ở trại bảo an binh. Xe tăng, súng máy và lưỡi lê của quân Nhật phải lùi. Bọn Nhật đành phải trao cho cách mạng toàn bộ kho vũ khí của bảo an binh đóng tại đây. Tin khởi nghĩa thắng lợi ở khắp các địa phương đang dồn dập bay về ...

Chúng tôi vào làng Gạ.

Bác ở một ngôi nhà gạch nhỏ nhưng sạch sẽ. Chúng tôi bước vào, nhìn thấy ngay Bác đang ngồi nói chuyện với cụ chủ nhà.

Ngày nào ở Việt Bắc, Bác còn là ông ké Nùng. Bữa nay, Bác đã trở thành một cụ nông dân miền xuôi, rất thoải mái, tự nhiên trong bộ quần áo nâu. Bác vẫn gầy nên đôi gò má cao. Những đường gân hằn rõ trên trán và hai thái dương. Nhưng với vầng trán rộng, bộ râu đen, và đôi mắt, nhất là đôi mắt, luôn luôn ngời sáng, một sức mạnh tinh thần kỳ lạ toát ra từ hình dáng mảnh dẻ của Bác. Dù sao, so với những ngày dự hội nghị ở Tân Trào, Bác đã khá hơn nhiều.

Cụ chủ nhà thấy chúng tôi tới, giữ ý, mời thế nào cũng không ngồi lại, nói vài câu chào rồi lánh đi chỗ khác. Bác tươi cười nhìn chúng tôi, nói:

- Trông các chú bữa nay ra dáng người tỉnh thành rồi.

Chúng tôi sôi nổi báo cáo với Bác tình hình khởi nghĩa ở Hà Nội và các tỉnh. Bác ngồi lắng nghe, vẻ mặt điềm đạm. Tính Bác như vậy, khi vui khi buồn đều vẫn bình thản.

Chúng tôi nói với Bác ý Thường vụ muốn tổ chức sớm lễ ra mắt của Chính phủ. Theo quyết định của Hội nghị toàn quốc họp tại Tân Trào, ủy ban dân tộc giải phóng do Bác làm Chủ tịch sẽ trở thành Chính phủ lâm thời.

Với một vẻ vui vui, Bác nói như hỏi lại chúng tôi:

Mình làm Chủ tịch à?

Thực ra, một thời kỳ vẻ vang nhưng cũng cực kỳ hiểm nghèo của dân tộc đã bắt đầu. Bác đã nhận sứ mệnh khó khăn: Lái con thuyền cách mạng Việt Nam vừa mới hình thành, vượt qua những thác ghềnh nguy hiểm. Bác đã đón nhận nhiệm vụ đó trước lịch sử, trước nhân dân đúng như Bác đã trả lời các nhà báo nước ngoài ba tháng sau đó: “Tôi tuyệt đối không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận”

Chúng tôi trở về Hàng Ngang trước để chuẩn bị. Anh Nhân (đồng chí Trường Chinh) lên sau, ở lại đến chiều cùng về với Bác.

Đây là lần đầu tiên Bác đến Hà Nội. Chặng đường ba trăm ki-lô-mét từ ngôi nhà tranh nhỏ hẹp tại làng Kim Liên tới đây, Bác đã đi mất ngoài ba mươi lăm năm.

Con đường Bác đã đi không giống bất cứ con đường của một người Việt Nam yêu nước nào đã đi trước Bác. Bác đã một mình lặn lội, xông pha trên những nẻo đường của hầu khắp các miền khác nhau trên Trái Đất. Chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn phát triển tột cùng của nó trở nên vô cùng xấu xa. Nó tìm mọi cách xóa nhòa ranh giới giữa trắng đen, giữa thiện ác. Nó xuyên tạc mọi giá trị tinh thần chân chính mà loài người đến đó đã thành đạt được. Nó đang bưng bít mọi ánh sáng của công lý, tự do.

Bác đã đi giữa những ngày đông ảm đạm, vòm trời châu Âu, châu Á bị những đám mây đen chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc che phủ. Thế gian hỗn loạn, đau thương; tội ác của chủ nghĩa đế quốc chồng chất. Giữa lúc vàng-thau lẫn lộn, giả-thật khó phân, Bác đã nhanh chóng nhìn thấy ánh sáng của chân lý Bác đã đến với chủ nghĩa Lê-nin. Bác đã thấy học thuyết Lê-nin chính là “mặt trời đưa lại nguồn sống vui tươi”. Bác đã thấy ngọn cờ Lê-nin là “tượng trưng cho lòng tin và đuốc sáng của hy vọng". Người yêu nước Việt Nam vĩ đại đã tìm được ở chủ nghĩa Mác Lê-nin cho đồng bào ta và những người cùng hội cùng thuyền-những dân tộc bị đọa đày vì chủ nghĩa đế quốc-một con đường giải phóng duy nhất: Đường kách mệnh.

Một sự đổi thay đã đến trong đời sống của dân tộc. Mấy ngày trước đây, Hà Nội còn giữ nguyên vẹn bộ mặt một sản phẩm của chế độ thực dân thối nát thời chiến. Cả thành phố chìm đắm trong những hoạt động chợ đen. Cuộc sống tính từng ngày. Những chiếc xe chở rác không đủ để đưa xác những người chết đói ra vùng ngoại ô, đổ xuống những hố chung. Trong khi đó, ở các cửa ô, người đói khắp làng quê vẫn ùn ùn kéo vào. Họ đi vật vờ như những chiếc lá khô buổi chiều đông. Nhiều khi, chỉ một cái gạt tay của viên cảnh sát cũng đủ làm họ ngã xuống không bao giờ trở dậy.

Lại thêm tháng Tám năm nay, nước triều sông đều lên to. Cơn “hồng thủy” đã phá vỡ những đê điều từ lâu không được bọn thống trị nhòm ngó tới. Sáu tỉnh đồng bằng vựa thóc của cả miền Bắc, bị chìm dưới làn nước trắng. Dịch tả hoành hành. Bao nhiêu tai họa của chế độ thực dân cùng một lúc dồn đến. Cùng với bọn đầu cơ kinh tế, bọn đầu cơ chính trị cũng đua nhau nổi lên. Chúng vừa hô “Việt Nam độc lập” vừa hô "Đại Nhật Bản vạn tuế. Thay vào những tên đội xếp Pháp mang dùi cui là những tên hiến binh Nhật đeo kiếm dài, lết xệt đôi ủng đi trên các hè phố.

Không phải chỉ riêng Hà Nội mà cả dân tộc ta đang sống những giờ phút đau thương.

Thắng lợi vĩ đại của Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật vào giữa tháng tám, đã đưa lại cho dân tộc một thời cơ lớn.

Cách mạng nổi lên như một cơn lốc.

Chỉ trong vài ngày những vết nhơ, những nỗi nhục nhằn, khổ đau của chế độ nô lệ đã được quét đi khá nhiều.

Sức hồi sinh của cách mạng thật lạ thường. Hôm trước, cả thành phố còn tê liệt vì nạn đói, vì bệnh dịch, vì sự khủng bố. Hôm sau, tất cả những đường to, ngõ hẻm đã sôi lên. Hàng vạn, hàng vạn con người ầm ầm kéo đi với sức mạnh như những dòng thác.

Chính quyền nhân dân cách mạng vừa mới thành lập. Phần lớn đồng bào còn chưa biết những ai là người thay mặt cho chính quyền mới nhưng mọi người đã tự động tạo nên một trật tự mới, trật tự của cách nạng. Nạn cướp giật mất hẳn, trộm, cắp hầu như không xảy ra. Những người ăn xin cũng không còn. Hoạt động buôn bán, hoạt động chủ yếu của thành phố đã nhường chỗ cho một hoạt động mới: hoạt động cách mạng. Một người đi xe đạp đến đầu phố cầm loa hô lớn: "Mời đồng bào đến tập trung ở địa điểm X. tham gia biểu tình". Không biết người đó là ai, nhưng lời hô hào lập tức được truyền đi. Nhiều người dân tự động vác loa ra đứng giữa đường làm công tác thông tin.

Ai đang làm dở việc gì cũng để lại đấy. Tất cả ào ào kéo đi. Chỉ chốc lát, hàng vạn người đã có mặt ở địa điểm biểu tình. Họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì mà cách mạng cần đến.

Không khí Hà Nội trở nên trong lành, náo nức. Đoàn quân Việt Minh đi, chung lòng cứu quốc..., những bài ca cách mạng vang lên rộn ràng từ sớm tới khuya. Cờ sao mỗi lúc một nhiều hơn, đẹp hơn. Cờ bay đỏ nhà, đỏ phố. Cách mạng đúng là ngày hội của những người bị áp bức.

Chập tối, Bác đến nhà. Chúng tôi ra đón nhận thấy trên nét mặt của Bác những dấu hiệu xúc động.

Bác đã về đến Hà Nội. Ít ngày nữa Hà Nội sẽ trở thành Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ Công hòa. Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên tại Đông Nam châu Á. Hà Nội chưa được cùng san sẻ với chúng tôi hôm nay niềm vui đón Bác trở về. Ngay cả đồng chí lái xe bữa ấy cũng vậy. Mấy ngày sau, anh xin phép nghỉ, lên Thái Nguyên dẫn bố về dự Tết Độc lập để xem mặt Cụ Chủ tịch nước. Đến quảng trường Ba Đình, anh mới biết Chủ tịch chính là Cụ già bữa trước mình đã đánh xe đi đón ở làng Gạ.

Nguồn Sự kiện & nhân chứng : Nguyệt san của báo quân đội nhân dân. - 2007. - Tháng 8. - Số 164. - Tr. 3, 33

Một ngày lịch sử

Ở Việt Nam chính quyền thực dân thi hành chính sách cai trị thời chiến cực kỳ phản động trên mọi mạt đời sống xã hội, đẩy mọi giai cấp, mọi tầng góp nhân dân, trừ bọn tay sai của đế quốc, bọn địa chủ lớn, tư sản mại bản vào cảnh khốn cùng.

Tình hình thế giới và trong nước đặt ra cho cách mạng nước ta nhiệm vụ mới trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai, “sẽ tiến tới vấn đề dân tộc giải phóng” như Thông cáo cho các cấp bộ Đảng của Trung ương Đảng, ngày 29-9-1939, nhận định. Tháng 11-1939, Hội nghị BCH Trung ương Đảng họp tại Hóc Môn (Gia Định xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của Cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị nhận định “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hai da vàng để tranh lấy giải phóng, độc lập2.

Chính vào thời điểm đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang trên đường trở về Tổ quốc. Ý định về Tổ quốc đã được người nung nấu từ nhiều năm trước đây. Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, năm 1923, Người đã chủ trương “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”3. Nhưng do phải đảm nhiệm một số công tác của QTCS (ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế nông dân, phụ trách công tác vận động nông dân ở Trung Quốc và ở các thuộc địa Đông Dương, Miến Điện, Xiêm, Đài Loan, Philíppin; ủy viên Ban phương Đông QTCS, trực tiếp làm Cục trưởng Cục phương Nam...); trong nước, theo lệnh chính quyền Pháp, tòa án Nam triều kết án tử hình vắng mặt Nguyễn Ái Quốc (1929), nên Người chưa trở về Tổ quốc được, mặc dù có thời gian đã về gần biên giới và luôn theo dõi sát, chỉ đạo thường xuyên phong trào cách mạng trong nước. Nhưng ý định trở về Tổ quốc không lúc nào nguôi trong tâm trí Người.

Năm 1935 học xong một khóa bồi dưỡng ở Trường quốc tế Lê nin (Mátxcơva), Người đã bày tỏ “Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở về Tổ quốc tôi”4. Khi gặp đồng chí Hoàng Văn Nọn (tức Như, Tú Hưu), Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng, đại biểu Đảng ta tham dự Đại hội lần thứ VII QTCS, sau Đại hội theo học lớp ngắn hạn tại Trường đại học Phương Đông, Người đã trao đổi về vị trí của Cao Bằng và chỉ rõ Cao Bằng có những điều kiện để xây dựng chỗ đứng chân, căn cứ cách mạng để chuẩn bị lực lượng về mọi mặt. Sau đó, Người đã chỉ thị cho Ban lãnh đạo Đảng ta “Trung ương Đảng phải chuyển về nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào”5. Và từ tháng 10-1938, chính Người cũng đã vượt qua chặng đường dài gian khổ, nguy hiểm từ Mátxcơva (Liên Xô) đi Lan Châu (Cam Túc, Trung Quốc), Tây An, Diễn An, Quế Lâm, Hồ Nam, Trùng Khánh, Côn Minh đến Tĩnh Tây (Quảng Tây), vào đầu tháng 12-1940, để tìm đường về nước. Sau khi cân nhắc kỹ, Nguyễn Ái Quốc quyết định chọn Cao Bằng làm đất “đứng chân” đầu tiên để từ đó chỉ đạo phong trào cách mạng trong toàn quốc. Người nhận định “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế thuận lợi, nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được 6.

Làng Nậm Quang  (Tĩnh Tây, Quảng Tây) là điểm dừng chân cuối cùng ở nước ngoài của Nguyễn Ái Quốc, cách biên giới Việt Nam khoảng 7 km. Ở đây, Người đã mở lớp huấn luyện cho 43 cán bộ cách mạng Cao Bằng theo đường lối và phương pháp cách mạng mới, chuẩn bị cho việc tổ chức thí điểm các đoàn thể cứu quốc ở Cao Bằng sau này; đã cùng đồng chí, nhân dân địa phương đón Tết Tân Tỵ, thăm hỏi, chúc Tết bà con nhân dịp năm mới7 sáng ngày 28-1-19418 (mồng hai Tết), Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Thế An, Đặng Văn Cáp và Hoàng Văn Lộc rời Nậm Quang về nước. Đến trưa ngày hôm đó, từ đỉnh núi Sum Khảo, Người vượt cột mốc 108, biên giới Việt Trung, đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Tổ quốc thuộc Pác Bó, xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Người đứng lặng hồi lâu, bồi hồi xúc động. Đây là lần đầu tiên, kể từ ngày 5-6-1911, khi người xuống tàu rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân; sau gần 30 năm, qua 5 châu, 4 biển, Người mới có điều kiện trở về Tổ quốc, trực tiếp cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện ham muốn tột bậc đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc.

Đồng bào Pác Bó, thay mặt nhân dân cả nước, đón Người về ở tại nhà ông Máy Lỳ (một cơ sớ cách mạng). Đến ngày 8-2-1941, Nguyễn Ái Quốc và một số cán bộ mới chuyển lên hang Cốc Bó ở và làm việc. Từ ngày về nước, 28-1-1941, ở Pác Bó, Nguyễn Ái Quốc đã khẩn trương chỉ đạo xây dựng căn cứ địa Cao Bằng, chỉ đạo tổ chức thí điểm Mặt trận Việt Minh chuẩn bị và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng, tháng 5-1941, mà Nghị quyết của Hội nghị có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (1945); sáng lập Mặt trận Việt Minh, mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi sáng lập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam; viết nhiều tài liệu quan trọng về chính trị, quân sự để huấn luyện cán bộ, đặt nền tảng cho đường lối chính trị, quân sự của Đảng...

Là người sáng lập ĐCS Việt Nam (đầu 1930) và từ nước ngoài, thường xuyên theo dõi, chỉ đạo phong trào, nhưng cũng phải từ ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc mới trực tiếp cùng Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kịp thời đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đề ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng; và cùng với chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng của người trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân. Và cũng từ ngày đó, 28-1-1941, Pắc Bó, một bản làng héo lánh, với hang Cốc Bó, lán Khuất Nậm, núi “Các Mác”, suối “Lênin” (những ngọn núi, dòng suối ở Pác Bó do Người đặt tên) và nhiều địa danh khác, đã trở thành những địa danh nổi tiếng, gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, gắn liền với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc ta.

Vinh dự được đón lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về nước, trong nhiều thời gian ở và làm việc tại Cao Bằng, được người coi là quê hương thứ hai, đồng bào các dân tộc ở Cao Bằng đã đoàn kết chặt chẽ hăng hái phấn đấu thực hiện các chủ trương của Đảng, của lãnh tụ, trở thành một tỉnh đi đầu trong cuộc “cách mạng dân tộc dân chủ” như lời khen tặng của Người năm 1961. Ngày nay, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương, của các ngành, các cấp, các tỉnh bạn, Đảng bộ và nhân dân Cao Bằng ra sức đoàn kết, khắc phục khó khăn, chủ động sáng tạo trong lao động, sản xuất, xây dựng cuộc sống mới, đấu tranh bảo vệ biên giới giữ vững chủ quyền, đạt được một số thành tựu đáng kể: kinh tế tăng trưởng; đời sống nhân dân được cải thiện hơn trước, an ninh - quốc phòng được củng cố, tăng cường, đường biên giới thuộc địa bàn tỉnh được giữ vững; lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, đối với sự nghiệp đổi mới ngày càng cao. Dù còn nhiều khó khăn, nhưng thành tựu bước đầu đó là tiền đề quan trọng, tạo đà cho Cao Bằng bước sang thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu thực hiện lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Cao Bằng sớm trở thành một trong những tỉnh gương mẫu trong cách mạng XHCN”.

1. Theo Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, 1920-1954. ST. H, 1981, T.I, tr. 305.

2. Văn kiện Đảng (1930-1945), BNCLSĐTU, H. 1977. T. III, tr. 55

3. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, ST. H. 1975, tr. 53-54.

4,5. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, NXB CTQG, H. 1993,   tr.53. tr.54 

6. Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử NXB Văn học, H. 1977. tr. 38.

7. Cán bộ Bảo tàng Pác Bó đã sang Nậm Quang gặp gỡ một số người còn nhớ sự kiện này. Họ đều xúc động kể về tình cảm của Bác Hồ đối với nhân dân Trung Quốc ở đây.

8. Không phải là 8-2-1941 như một số sách, báo đã viết.

Nguồn Lịch sử Đảng. -1996. –Số tháng 1. –Tr.40-41

Lời thề quyết chiến giành độc lập

Rồi anh Giáp dẫn chúng tôi đến chỗ Bác ngay. Bước vào cái lều Bác ở, tôi rất cảm động. Nhà trống hơ trống hoác, bốn phía không có phên che. Bấy giờ đã vào thu lại sau những trận mưa liên miên, khí trời lạnh. Ông Cụ ngồi xổm một mình trên sàn. Tôi nhận ra ngay ông Cụ, nhưng ông Cụ hom hem quá, khác hẳn đồng chí Vương hồi trước. Ông Cụ đã để râu, tóc lốm đốm bạc, hai má hóp lại, đầu đội miếng vải túm lại như mũ nồi, mình mặc áo cộc chàm; hai chân gầy khẳng khiu làm cho hai ống quần soóc càng rộng. Chỉ có đôi mắt là vẫn sáng như xưa...

Sau bao nhiêu năm bây giờ mới được gặp lại Bác, tôi nghĩ liên miên, nghĩ chuyện ngày xưa, nhớ những lời Bác dặn dò. Rồi tin Bác bị bắt (1931), bị chết vì ho lao, bây giờ không ngờ lại trở về đây. Bác bảo mọi người ngồi. Giọng nói không có gì đổi khác, vẫn từ tốn, đầm ấm như trước. Hôm ấy tôi được nói chuyện riêng với Bác. Chúng tôi vào thăm Bác và để bàn với Bác về công việc chuẩn bị Hội nghị Trung ương. Khi bàn công việc, Bác vẫn minh mẫn, khẩn trương. Tôi nhớ khi ấy Thường vụ chưa ấn định dứt khoát ngày họp của Hội nghị Trung ương mở rộng, Bác nói:

- Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ biến chuyển nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội.

Một mặt Thường vụ họp, một mặt Bác đề nghị một số đồng chí đi dự Hội nghị Trung ương phải về ngay địa phương, nắm lấy những ý kiến của Ban thường vụ đem về mà thi hành. Ngày ấy, Nhật chưa đầu hàng Đồng minh, nhưng Bác nói: “Chỉ vài ngày nữa là nó hàng, và hàng không điều kiện”. Vài hôm sau, trong khi Hội nghị Trung ương đang họp, chúng tôi được tin phát xít Nhật đầu hàng...

Bác tuy rất yếu nhưng dự họp suốt từ đầu tới cuối với Ban thường vụ. Ngày 13, 14, 15 - 8 - 1945, Hội nghị Trung ương lần thứ chín họp. Những quyết định của hội nghị này có một tầm quan trọng rất lớn đối với vận mạng của dân tộc. Cuộc thảo luận ở Hội nghị thật là sôi nổi và hào hứng bàn nhiều nhất là về hai khả năng của cách mạng: Khả năng thứ nhất là ta lấy lại được nước nắm được chính quyền tức là có cương vị nói chuyện với Đồng minh. Khả năng thứ hai là lực lượng chủ quan của ta yếu, không tận dụng được thời cơ thuận lợi mà giành lấy chính quyền trước khi Đồng minh kéo vào - mà Đồng minh là có Pháp ở trong thì tức là phải đặt vấn đề đàm phán với Pháp... tiếp tục đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng. Khi bàn đến khả năng Pháp có thể trở lại, có đồng chí uất quá nói: Nó vào thì cứ đánh. Dù lực lượng nhỏ đến đâu cũng đánh. Đấy là những lời tâm huyết, biểu lộ một tấm lòng nhiệt thành yêu nước. Nhưng khách quan mà nhìn nhận vấn đề, thì đánh Pháp lúc ấy phức tạp vì nó núp sau danh nghĩa Đồng minh.

Vì điều kiện sức khỏe Bác không dự Hội nghị Trung ương được suốt. Nhưng Bác góp rất nhiều ý kiến. Bác rất sáng suốt và bình tĩnh phân tích tình hình một cách rõ ràng và khoa học. Bác nhận định cách mạng là một cuộc đấu tranh lâu dài làm cách mạng phải chiến đấu hết keo này đến keo khác; trước mắt là phải nỗ lực phát động một cao trào khởi nghĩa, đã có khu giải phóng rồi phải mở rộng khu giải phóng ra khắp nơi trong nước, dù lực lượng còn nhỏ cũng lập khu giải phóng, trước khi Đồng minh vào. Tích cực thì năm được thời coi không tích cực thì thời cơ không chờ mình... Hội nghị quyết định phát động một cao trào khởi nglia suốt từ Bắc chí Nam ai nấy đều bừng bừng chấn khởi...

Một tối sau cuộc họp của Ban thường vụ, chúng tôi đốt đuốc vào thăm Bác. Bác đang nói chuyện với các anh bỗng nhìn tôi và nói:

- Trông chú già đi nhiều.

Tôi hỏi lại Bác còn nhớ tôi cơ ạ?

- Nhớ chứ!...

Buổi tối ấy, Bác và tôi nhắc lại những ngày ở Quảng Châu. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã hai mươi năm rồi. Bác nhớ rất kỹ. Bác rất vui... Nhưng vui mấy thì những cuộc chuyện trò như thế cũng không bao giờ kéo dài quá một tiếng đồng hồ. Cuối cùng lại trở về công tác trước mắt. Sáng ngày 16-8, Quốc dân đại hội khai mạc ở đình Tân Trào. Bác được bầu vào Đoàn chủ tịch. Hôm ấy ban tổ chức giới thiệu Bác là cụ Hồ Chí Minh một nhà lão thành cách mạng. Nhiều đại biểu không khỏi ngạc nhiên vì chưa nghe thấy tên Hồ Chí Minh bao giờ. Nhưng một số người đã thì thầm về Bác mà người ta gọi là ông Ké Tân Trào. Mấy đại biểu kháo nhau: cụ Nguyễn Ái Quốc đấy!...

Các đại biểu vừa phấn khởi, vừa bồi hồi. Suốt ngày hôm ấy Bác điều khiển hội nghị. Đại biểu nào cũng chú ý lắng nghe những ý kiến của Bác. Anh Trường Chinh đọc báo cáo trước Đại hội, nêu ra hai vấn đề lớn để thảo luận Tổng khởi nghĩa và bầu ủy ban giải phóng dân tộc Đoàn đại biểu. Nhân dân Tân Trào đem gạo, đem gà đến mừng Đại hội. Đồng bào ta đã bị chiến tranh bòn mót đến xương tủy, ai nấy đều tiều tụy, rách rưới. Đáng thương nhất là các em bé thiểu số gầy gò, vàng vọt. Chúng ở truồng tồng ngồng, theo người lớn đến chào Quốc dân đại hội. Bác đã đến gần các cháu, chỉ vào chúng và nói với các đại biểu:

- Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ thế này.

Chúng tôi đều cảm động. Câu nói ấy, về sau này, Bác thường nhắc nhở luôn.

Quốc dân đại hội quyết định lệnh Tổng khởi nghĩa và bầu ra ủy ban giải phóng dân tộc mà Bác làm Chủ tịch. Bác tổng kết đại hội lịch sử này, động viên các đại biểu trở về địa phương nỗ lực phấn đấu giành lấy thời cơ thuận lợi có một không hai để đưa cách mạng đến thành công. Sáng 17-8, ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân và làm lễ tuyên thệ. Tôi được cử đi đón Bác... Khi Bác đi từ dưới suối lên, các vị trong ủy ban đã đứng trước đình chờ sẵn. Bác bước tới và đứng vào giữa, thay mặt ủy ban, hướng lên lá cờ đỏ sao vàng dựng trước đình, đọc lời tuyên thệ. Lời thề “Quyết chiến giành độc lập cho Tổ quốc” rất ngắn, nhưng rất súc tích, như mọi câu nói, mọi bài viết của Bác. Tôi không nhớ được lời văn, nhưng nhớ đại ý:

“Chúng tôi là những người được quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước. Xin thề!”.

Giọng Bác trang nghiêm, lời thề dõng dạc, biểu lộ cái khí phách kiên cường, dũng cảm, quật khởi của dân tộc ta. Chúng tôi thấy rạo rực trong người, giơ tay theo kiểu chào bình dân, cùng hô một cách mạnh mẽ: Xin thề!

Nguồn Sự kiện & Nhân chứng. -2006. –Số 152. –Tr.3, 8.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, trên vũ đài chính trị đã xuất hiện nhiều giai cấp, lực lượng đứng ra “thử sức" giải quyết hai mâu thuẫn nêu trên, song kết cục không thành công. Sự thất bại của phong trào Cần Vương vào cuối thế kỷ XIX chứng to ngọn cờ phong kiến không đủ sức tập hợp quần chúng thực hiện mục tiêu giai phóng dân tộc. Thất bại của khởi nghĩa Yên Thế và các phong trào yêu nước tiểu tư sản đã minh chứng rõ thêm nông dân và tiểu tư sản không thể lãnh đạo được cách mạng vì không có hệ tư tưởng riêng.

Đầu thế kỷ XX, nhiều phong trào yêu nước theo lập trường giai cấp tư sản nổi lên, tiêu biểu là phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, hoạt động của Quốc dân đảng, đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia, song kết cục cũng không thành công. Sau này lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đánh giá chủ trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách khác nào "xin giặc rủ lòng thương"; chủ trương cầu viện người Nhật Bản giúp Việt Nam đánh Pháp của cụ Phan Bội Châu khác nào "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Điều đáng chú ý là ở Việt Nam giai cấp tư sản chưa bao giờ lãnh đạo cách mạng, các phong trào yêu nước theo lập trường tư sản lại do các trí thức, tiểu tư sản tiếp nhận tư tưởng tư sản từ bên ngoài mà phát động nên. Do đó, ngay từ đầu các phong trào cải cách có người chủ trương bạo động, người trông chờ nước này, người trông chờ nước khác, không thấy được sức mạnh nội tại của dân tộc Việt Nam. Hạn chế ấy cũng là tất yếu khi tư sản dân tộc Việt Nam với thế lực kinh tế nhỏ bé, tinh thần bạc nhược, không đủ sức mạnh và bản lĩnh làm hậu thuẫn cho cuộc cách mạng theo lập trường giai cấp của nó. Sự thất bại của khuynh hướng cứu nước theo lập trường giai cấp tư sản chứng tỏ hệ tư tưởng tư sản không đủ sức tập hợp quần chúng làm cho cuộc khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam thêm sâu sắc.

Lịch sử chỉ còn trông chờ vào một giai cấp cách mạng đang lên: giai cấp công nhân. Nhưng công nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX chỉ mới có các yếu tố “cần”, còn thiếu các yếu tố “đủ”, để vươn lên trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng - tức là còn thiếu chủ nghĩa Mác- Lênin và đội tiên phong của nó dẫn đường. Điều đó càng nói lên tính chất     khủng hoảng nghiêm trọng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX, như lãnh tụ Hồ Chí Minh sau này diễn đạt bằng hình ảnh: cách mạng Việt Nam ở trong đêm tối tưởng chừng như không có đường ra.

Trong bối canh đó, năm 1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành đi ra nước ngoài tìm đường cứu nuớc. Trải qua một quá trình bôn ba khắp năm châu, bốn bể, hoà mình trong cuộc sống của các tầng lớp lao khổ, Người từng bước nhận thức rõ tình hữu ái giai cấp và tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức. Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp Việt kiều yêu nước ở Pháp. Năm 1918, Nguyễn Ái Quốc tham gia đảng xã hội Pháp, hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tìm hiểu những kinh nghiệm của cách mạng Pháp, tranh thủ sự đồng tình của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp đối với cuộc đấu tranh yêu nước của Việt Nam và tìm hiểu Cách mạng tháng Mười Nga. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. "Sơ thảo…” đã vạch ra chiến lược và sách lược cho các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giải phóng. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước đúng đắn - con đường cứu nước theo lập trường giai cấp vô sản. Cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp và tán thành đường lối quốc tế III, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là đến với cách làm chính trị hiện đại. Tức là muốn làm cách mạng, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì phải có sự lãnh đạo của một chính đảng vô sản được vũ trang bởi lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ năm 1921, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về nước, chuẩn bị mọi điều kiện cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam. Từ 1921-1929, Nguyễn Ái Quốc tiến hành nhiều hoạt động kiên trì, bền bỉ, gian khổ nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào công nhân, nông dân và nhân dân lao động, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập Đảng. Năm 1921, ở Pari, Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, nhằm tập hợp các lực lượng chống đế quốc trong các nước thuộc địa của Pháp. Người ra báo Người cùng khổ và dành nhiều thời gian viết báo, chuyển về trong nước tố cáo ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp, vạch rõ cho nhân dân Việt Nam thấy rõ nguyên nhân nỗi khổ cực và con đường giải thoát nỗi khổ ấy là tiến hành cách mạng tự giải phóng.

Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, hoạt động trong các tổ chức quốc tế viết nhiều bài báo vừa tố cáo ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác-lênin, xây dựng những luận điểm cơ bản về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việc Nam. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu (Trung Quốc) trong phái đoàn Quốc tế cộng sản. Tháng 6-1925, lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (gọi tắt là tổ chức Thanh niên), ra báo Thanh niên và mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ. Trong các tác phẩm, bài báo và các bài giảng của  mình, nhất là trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp và cuốn Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã  kết hợp việc truyền bá chủ nghĩa Mác-lênin với việc trình bày những luận điểm cơ bản làm cơ sở hình thành đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Sau khi được vũ trang lý luận chủ nghĩa Mác-lênin các hội viên Thanh niên (và cả Tân Việt cách mạng đảng gọi tắt là Tân Việt) được Nguyễn Ái Quốc đưa vào nhà máy, hầm mỏ hoạt động (gọi là phong vào "vô sản hoá”). Qua phong trào này, một mặt để truyền bá chủ nghĩa Mác-lênin sâu rộng trong công nhân, mặt khác giúp những thanh niên giàu nhiệt huyết, yêu nước trong tổ chức Thanh niên và Tân Việt trở thành những người vô sản thực thụ. Nhờ được tiếp thu có hệ thống chủ nghĩa Mác-lênin, phong trào công nhân nhanh chóng chuyển từ tự phát sang tự giác. Trong những năm 1927-1929 đã xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh thể hiện tính chất chính trị rõ nét. Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ đã cuốn hút phong trào nông dân, tiểu tư sản đi theo quỹ đạo của nó. Qua nhận thức lý luận và thực tiễn đấu tranh, những người Việt Nam yêu nước chân chính nhận thấy chỉ có đi theo ngọn cờ chủ nghĩa cộng sản mới có thế giải phóng được dân tộc và giải phóng giai cấp, từng bước chuyển từ lập trường quốc gia sang khuynh hướng mác xít, rồi từ khuynh hướng mác xít chuyển sang lập trường cộng sản.

Đứng trước sự phát triển của phong trào cách mạng, các hội viên cấp tiến trong Thanh niên nhận thấy rằng, một tổ chức mang tính quốc gia không để đáp ứng được yêu cầu của quần chúng, mà phải thiết lập một tổ chức cộng sản. Chi bộ cộng sản đầu tiên ra đời tại Hà Nội vào tháng 3-1929 từ sự chuyển biến nhận thức nêu trên. Đến tháng 5-1929, tại : Đại hội của tổ chức Thanh niên ở Hương Cảng, các đại biểu Bắc kỳ đã nêu yêu cầu thành lập Đảng cộng sản, nhưng không được nhất trí trong toàn Hội, nên bỏ về thành lập Đông Dương cộng sản Đảng vào tháng 6-1929 ở Bắc kỳ. Đông Dương cộng sản Đảng ra đời đã đặt vô chức Thanh niên trước nguy cơ bị mất dần hội viên và quần chúng, do không còn sức hấp dẫn. Vì vậy, tháng 7-1929, những hội viên còn trong Thanh niên quyết định thành lập An Nam cộng sản Đảng ở Nam kỳ. Tiếp đó, tháng 9-1929, các đảng viên của Tân Việt ra “Tuyên đạt” tuyên bố thành lập tổ chức cộng sản và tháng 1-1930 thì Đông Dương cộng sản liên đoàn chính thức ra đời.

Như  vậy, đến đầu 1930, trên dải đất Việt Nam đã có 3 tổ chức cộng sản, nhưng lại tranh giành quần chúng, công kích nhau, có nguy cơ làm tổn hại đến phong trào cách mạng đang lên. Một lần nữa, lịch sử lại đặt lên vai lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trách nhiệm thống nhất các tổ chức cộng sản. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản từ 3 - 2 đến 7-2- 1930 do Người chủ trì đã làm nhiệm vụ đó Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Lời kêu gọi... do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được xem là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh đã vạch ra những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, từ tính chất, mục đích, nhiệm vụ, phương pháp, lực lượng, và trò lãnh đạo mối liên hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới...

Cương lĩnh khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân - là lực lượng có sứ mệnh lãnh đạo nhân dân làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng" để "đi tới xã hội cộng sản".

Đảng ta ra đời xuất phát từ đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sở dĩ Đảng nắm được quyền lãnh đạo cách mạng là nhờ đã nắm bắt được xu thế của dân tộc và thời đại, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đề ra được phương pháp cách mạng thích hợp, đặt cách mạng Việt Nam trong trào lưu chung của cách mạng thế giới.

Càng lùi xa về thời gian càng thấy rõ vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác, đưa phong trào yêu nước dần chuyển sang khuynh hướng mác xít, rồi từ khuynh hưởng mác xít chuyển sang lập trường cộng sản. Hệ quả cuối cùng là Đảng cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hội tụ, kết hợp đầy đủ cả 3 yếu tố chủ nghĩa Mác-lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chính là tạo ra các tiền đề cho 3 yếu tố đó kết hợp? đan xen, quyện chặt nhau một cách lôgíc, dẫn tới sự ra đời 3 tổ chức cộng sản. Và cuối cùng với uy tín của mình, Người đã thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng cộng sản Việt Nam vào 3-2-1930.

Điều đó cũng nói lên rằng, Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời chẳng những đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn đấu tranh cho lợi ích chân chính của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Chính vì lẽ đó, lịch sử đã đặt lên vai Đảng cộng sản Việt Nam sứ mệnh duy nhất lãnh đạo cách mạng nước ta và lịch sử thế kỷ XX đã kiểm chứng sự lựa chọn ấy: các tầng lớp nhân dân lao động, những người có lương tri, có tinh thần yêu nước chân chính đều quy tụ xung quanh Đảng làm nên sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Hôm nay, Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục sự nghiệp mà lịch sử đã uỷ thác: lãnh đạo nhân dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền dân tộc và xây dựng thành công CNXH đưa đất nước phát triển đi tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

 

Nguồn Giáo dục lý luận. - 2011. – Số xuân Tân Tý.- Tr. 5-8.

 

Hồ Chí Minh trở về tổ quốc lãnh đạo toàn dân đấu tranh vì tự do, độc lập

Trong bối cảnh lịch sử đó, người thanh niên yêu nước và cấp tiến Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh với thiên tài tử tuệ, phẩm chất, nhân cách và hoạt động thực tiễn của mình đã nghiên cứu, kế thừa và nâng lên tầm cao mới nguồn giá trị văn hóa tư tưởng truyền thống của dân tộc kết hợp với sự học hỏi, tiếp biến và phát triển biện chứng tinh hoa văn hóa tư tưởng, cách mạng của các nước phương Đông và phương Tây ở thế kỷ XVII, XVIII, đặc biệt là học thuyết cách mạng của C. Mác, VI. Lênin và kinh nghiệm cách mạng Tháng Mười Nga đã đề ra một hệ tư tưởng cách mạng sáng tạo mang tầm vóc một học thuyết về giải phóng dân tộc và phát triển đất nước vì độc lập tự do. Học thuyết cách mạng đó được các học viên do Hồ Chí Minh huấn luyện ở Quảng Châu đã được đưa về bí mật truyền bá và tổ chức nhân dân đấu tranh, làm dấy lên trong cả nước một phong trào đấu tranh dân tộc,  dân chủ ngày càng mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của tổ chức cộng sản ở trên cả ba miền của đất nước.

Thực hiện trọng trách lịch sử của mình, với tư cách người thầy dẫn đường, là phái viên của Quốc tế Cộng sản có quyền trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương và bằng thái độ chân thành, có sức thuyết phục lớn, Hồ Chí Minh đã làm cho đại diện các tổ chức đảng cộng sản đồng thuận thống nhất lập thành một đảng với tên gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam.

Chánh cương vắn tắt và sách lược vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo đã được hội nghị thành lập Đảng nhất trí thông qua là một Cương lĩnh chính trị sáng tạo trong đó nổi án như một điểm son là tư tưởng độc lập tự do. Đó là mục tiêu quy tụ sức mạnh toàn dân đứng lên chiến đấu đánh đổ chế độ thực dân, giành lại quyền độc lập cho Tổ quốc, tự do cho toàn dân Việt Nam. Thực tiễn phong trào cách mạng năm 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết - Nghệ tĩnh là một minh chứng giá trị sáng tạo của ngọn cờ độc lập, tự do của Hồ Chí Minh.

Sự quyết đoán đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc thống nhất các tổ chức cộng sản tiền thân để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, về Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng...khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản. Tháng 10-1930. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Trần Phú chủ trì đã phê phán gay gắt những điều gọi là sai lầm nguy hiểm về chính trị và tổ chức của Hồ Chí Minh nên đã quyết định bỏ tên Đảng Cộng sản Việt Nam mà lấy tên là Đảng Cộng sản Đông Dương; thủ tiêu Chính cương văn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng thay bằng Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương… Từ đó trở đi, nhất là sau khi bị thực dân Anh bắt ở Hồng Kông được trả lại tự do, Hồ Chí Minh trở lại Liên Xô đã chịu đựng một hoàn cảnh phải "sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng". Với mong muốn trở về Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã tha thiết, yêu cầu Quốc tế Cộng sản giúp đỡ để thay đổi hoàn cảnh đau buồn này, ý nguyện đó được chấp nhận và Người đã quyết định rời khỏi Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa để trở về nước.

Về tổ quốc lãnh đạo toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc.

      Ngày 28-1-1941, Hồ Chí Minh đã vượt biên giới Trung - Việt đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng tại địa đầu của Tổ quốc với biết bao cảm động của người con đã ba mươi năm xa nước. "Bao nhiêu năm thương nhớ, đợi chờ, hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình…". Lúc này chiến tranh thế giới lần thứ hai đang diễn ra ác liệt. Ở Đông Dương, ách áp bức của Nhật - Pháp đã đặt vận mệnh dân tộc Việt Nam cũng như Lào, Miên trước nguy vong không lúc nào bằng. "Nhân dân Việt Nam... ai cũng chán ghét cuộc đời nô lệ, ai cũng muốn độc lập, tự do và đang trong tư thế một người lên tiếng vạn người ủng hộ".

Về đến Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng để quyết định thực hiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc cho phù hợp với nhu cầu cấp bách của Tổ quốc là đánh đuổi Nhật – Pháp, giành lại quyền độc lập dân tộc, nhân dân được tự do, tự mình làm chủ vận mệnh của mình.

Trước hết là phải khẳng định, củng cố và phát triển hơn nữa hệ quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh mang tầm vóc một học thuyết cách mạng giải phóng vì độc lập tự do và phát triển đường lối chiến lược của Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. Nói đến vấn đề dân tộc theo quan điểm của Hồ Chí Minh đã được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng rằng nói đến vấn đề dân tộc tức là nói đến sự tự do độc lập của mỗi dân tộc. "Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý… Văn hóa của mỗi dân tộc sẽ được tự do phát triển, tồn tại và được bảo đảm. Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng".

Trên cơ sở nhận thức đó về vấn đề dân tộc, Đảng đã quyết định phải thay đổi chiến lược cách mạng cho phù hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân các nước trên bán đảo Đông Dương là phải đánh Pháp, đuổi Nhật làm cho các quốc gia dân tộc được độc lập tự do. Vì vậy cuộc cách mạng ở Đông Dương lúc bấy giờ không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền phải đồng thời giải quyết hai vấn đề là phản đế và ruộng đất nữa, mà là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp là đánh đuổi Pháp Nhật mà thôi... Để đánh Pháp đuổi Nhật, các quốc gia dân tộc ở Đông Dương phải liên hiệp toàn dân không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái xu hướng chính trị, đoàn kết chiến đấu giành quyền độc lập. Đối với Việt Nam, Đảng chủ trương thành lập Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh - một mặt trận rộng rãi có tính chất dân tộc hơn hết, dễ hiệu triệu và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế lúc bấy giờ. Sự nghiệp chống Pháp - Nhật do toàn dân đoàn kết tập hợp trong mặt trận Việt Minh để thực hiện nhiệm vụ cốt yếu đó của cách mạng do Đảng lãnh đạo. Sau khi đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. "Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung của toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc Pháp - Nhật và những bọn phản quốc thì không được giữ chính quyền, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam, thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền... và bảo vệ chính quyền ấy".

Chính phủ nước Vệt Nam Dân chủ Cộng hòa do quốc dân đại hội cử ra và lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ của toàn quốc.

Ngày 25-10-1941, Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) tuyên bố ra đời. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm nhằm thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào mong ước là:

Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn được độc lập.

Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do.

Dựa trên cơ sở tư tưởng dân tộc vì độc lập tự do sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đảng đã kịp thời thay đổi chiến lược cách mạng, gấp rút xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức lực lượng ở cả nông thôn và đô thị cùng với xây dựng lực lượng vũ trang, lập căn cứ địa cách mạng, đề ra khẩu hiệu và hình thức đấu tranh thích hơn khi tình thế đã thay đổi, dẫn dắt quần chúng đấu tranh đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.

Ngày 9-3-1945, cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Đảng phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước trong toàn quốc, thực hiện khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít Nhật bao gồm nhiều hình thức phong phú, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa từng phần giành chính quyền bộ phận đã diễn ra thắng lợi, nhất là ở Việt Bắc. Khu giải phóng Việt Bắc đã được thành lập. Tân trào được chọn làm thủ đô của Khu giải phóng. Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng được thành lập trong Khu giải phóng, nhân dân bắt đầu được hưởng hạnh phúc cách mạng. Một nước Việt Nam mới đang nảy nở.

Giữa Tháng Tám năm 1945, thời cơ Tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến 15-8-1945 ở Tân Trào đã quyết định phát động khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền từ tay Nhật và lực lượng tay sai, đứng ở vị trí cầm quyền mà tiếp quân Đồng minh vào giải ngũ quân Nhật trên đất Đông Dương.

Ngay sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân khai mạc theo chủ trương của Hồ Chí Minh đề ra tại Hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng và thư của Người gửi đồng bào toàn quốc tháng 10-1944. Với tầm quan trọng mang tính pháp quyền. Hồ Chí Minh chỉ thị cuộc Đại hội Đại biểu quốc dân phải khai mạc chậm nhất vào trung tuần tháng 7-1945. Người đã từng cân nhắc giá trị của thời gian, của mỗi ngày, mỗi giờ trong lúc chuyển biến. Cho nên khi thấy công việc chậm trễ thì Hồ Chí Minh đã dùng đủ mọi cách để động viên tinh thần cán bộ phụ trách và thúc giục công cuộc khai hội. Người thấy rõ lúc bấy giờ, chậm một chút tức là bỏ lỡ cơ hội thuận lợi. Song vì liên lạc khó khăn, đường sá trắc trở mặc dù anh em đại biểu đã hết sức đi nhanh chóng mà mãi đến ngày 14 tháng 8 các đại biểu mới lần lượt đến Tân Trào. Những đại biểu đi sau tính ra đến ngày 16, 17 hoặc 18 mới đến đầy đủ. Vì vậy, không thể tiếp tục chờ được nữa nên Hồ Chí Minh quyết định khai mạc ngay trong ngày 16-8-1945 tại Tân Trào. Đại hội đã nhất trí tán thành chủ trương phát động khởi nghĩa của Đảng và hiệu triệu nhân dân toàn quốc, các đoàn thể cách mạng phải đứng lên phấn đấu thực hiện 10 chính sách lớn, trước hết là phải giành chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc dân Đại hội đã cử ra ủy ban dân tộc giải phóng dân tộc Việt Nam gồm 15 thành viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Trần Huy Liệu là Phó Chủ tịch. Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam được Quốc dân Đại hội giao cho nhiệm vụ như là Chính phủ lâm thời nước Việt Nam trước khi thành lập một Chính phủ chính thức thay mặt Quốc dân để giao thiệp với các nước ngoài và chủ từ mọi công việc trong nước.

      Đại hội Đại biểu quốc dân Tân Trào mang tầm vóc lịch sử như Quốc hội đầu tiên của Việt Nam mới. Đây là "một tiến bộ rất lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay”.

Asimét L.A.Patti (kchimèdes L.A.Patti) một sĩ quan tình báo Mỹ có mặt ở Hà Nội sau khi Tổng khởi nghĩa đã nhận xét rằng, khi biết tin phát xít Nhật đã sụp đổ Hồ Chí Minh "đã hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng vì ông phải đảm bảo chiến được một chỗ đứng chân vững chắc ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rõ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ vai trò lãnh đạo và phát triển phong trào".

Đây là một nét sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh được Đảng và Tổng bộ Việt Minh nhất trí tổ chức thực hiện nhằm "phát huy ý chí, sức mạnh dân lộc và tính hợp pháp của sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập tự do bằng tổ chức Đại hội đại biểu quốc dân để đề ra quyết sách chuyển xoay vận nước bằng phương pháp khởi nghĩa vũ trang, xóa bỏ chế độ nô dịch thực dân, kiến lập chế độ cộng hoà dân chủ với cơ quan mang tính quyền lực cao nhất là Đại hội Đại biểu quốc dân và ủy ban dân tộc giải phóng do Đại hội lập ra".

Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị toàn quốc của Đảng, của Quốc dân Đại hội Tân Trào, Hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi "Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta cuộc Tổng khởi  nghĩa đã nhanh chóng thắng lợi trong toàn quốc. Trước tình hình đó theo yêu cầu của ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Bảo Đại ra Tuyên cáo thoái vị để Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa điều khiển quốc dân. Tuyên cáo nêu rõ lúc này "đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, tất cả các giai cấp, các đảng phái cho đến cả người Hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để Chính phủ Dân chủ Cộng hòa giữ vững nền độc lập của nước nhà". Còn đối với cá nhân Bảo Đại sau hai mươi năm nai vàng bệ ngọc đã biết bao ngậm đắng nuốt cay, từ nay... lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập (II). Việc Hoàng đế Bảo Đại trịnh trọng tuyên bố từ bỏ địa vị của ông ta là đã hợp pháp hóa theo một số truyền thống ngày nay đã được thừa nhận trên thế giới.

Ngày 25-8-1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều ủy viên Việt Minh trong ủy ban dân tộc giải phóng đã tự nguyện rút ra lễ mời thêm nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. "Đó là một cử chỉ vô tư tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của lân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân".

Sự mở đầu của kỉ nguyên tự do độc lập.

Ngày 2-9-1945, hàng chục vạn đồng bào nội, ngoại thành phố Hà Nội và các địa phương lân cận đã kéo về Ba Đình dự lễ tuyên bố độc lập. Thay mặt Chính phủ lâm thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời Tuyên ngôn khẳng định quyền dân tộc các nước trên thế giới là bất khả xâm phạm. Đó là: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Các nguyên tắc dân tộc bình đẳng đã được các nước Đồng minh công nhận ở các Hội nghị Tê hê răng và cựu Kim Sơn.

Chính vì lẽ đó, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam bình trọng tuyên bố "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy".

Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử đặt cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam, của sự thành lập Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Thắng lợi vĩ đại này là một minh chứng sáng tỏ về ý chí độc lập và khát vọng tự do, tinh thần bất khuất, trí tuệ của cộng đồng dân tộc Việt Nam, một dân tộc có một nguồn giá trị truyền thống về văn hóa tư tưởng quý báu đã hun đúc trong mấy ngàn năm lịch sử, được kế thừa và phát triển lên tầm cao mới trong thời kỳ đấu tranh giành lại quyền tự do độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đặc biệt được thể hiện phong phú và toàn diện trong những năm tháng khi Người được trở về nước từ mùa Xuân năm 1941. Ý nguyện cao cả và thiêng liêng cửa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tìm đường ra nước ngoài rồi "trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập" đã thành hiện thực bằng thắng lợi của cách mạng tháng Tám và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước chung của cả toàn thể dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc - kỷ nguyên tự do, độc lập, một thời đại mới rực rỡ tên vàng trong lịch sử quang vinh của dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh.

Nhận thức về giá trị lịch sử vĩ đại của sự kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tác giả bài: "Sự kiện lịch sử và tác dụng lịch sử của nó" Của Phạm Văn Đồng đã viết, toàn bộ lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng là một "pho lịch sử bằng vàng" thì sự kiện quan trọng bậc nhất được viết bằng chữ vàng chói lọi đó là cuộc Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam mới - nước Cộng hòa Dân chủ Vệt Nam. Đây là cái móc đánh dấu sự quá độ từ chế độ áp bức, bóc lột trong cả lịch sử nước ta chuyển sang một chế độ hoàn toàn khác, một chế độ mới chưa có ở nước ta và ở nhiều nước, một chế độ đảm bảo độc lập, tự do, hạnh phúc cho mỗi một người và cho cả cộng đồng dân tộc một chế độ hướng tới đỉnh cao ước mơ của con người và loài người: "sự phát triển tự do và toàn diện của mọi người".

Ánh sáng các dòng chữ vàng lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám tiếp tục sát đường cho toàn dân Việt Nam chiến đấu để giữ vững quyền tự do và độc lập và đang vượt qua mọi thách thức đã giành được những thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển Việt Nam thành một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh, xứng đáng một nước có hàng ngàn năm văn hiến, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới, dưới ngọn cờ của học thuyết cách mạng Hồ Chí Minh.

Nguồn Giáo dục lý luận. - 2011. - Số  tháng 2.- Tr. 39 – 43

Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngày toàn quốc kháng chiến

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử Thứ trưởng ngoại giao Hoàng Minh Giám đến gặp trao tận tay cho Xanhtơni một bức thư ngắn, nội dung tỏ ý rất đáng tiếc về tình hình đã trở nên quá xấu và đề nghị: ''Trong khi chờ đợi quyết định của Pa-ri, tôi mong rằng ông sẽ cùng ông Hoàng Minh Giám tìm một giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại,(1).

Nhưng Xanhtơni đã từ chối không tiếp và hẹn đến hôm sau mới nhận thư. Như vậy, mọi nỗ lực của ta nhằm duy trì hoà bình đã bị kẻ thù bác bỏ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ toạ phiên họp bất thường của Thường vụ Trung ương Đảng được bắt đầu từ ngày 18/12/1946. Hội nghị đã quyết định phát dộng cuộc kháng chiến toàn quốc vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946.

Sau khi Bộ trưởng Bộ quốc phòng Võ Nguyên Giáp trao mật lệnh cho các mặt trận về ngày giờ cuộc giao chiến trong toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời Kêu gọi toàn quốc kháng chiến tại gác 2 ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Dương làng Vạn Phúc (Hà Đông).

Đúng 20 giờ ngày 19/12/1946, tiếng súng kháng chiến toàn quốc vang rền, bắt đầu từ mặt trận Hà Nội, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền thanh khắp cả nước. Đây là một lời hịch cứu nước kết tinh ý chí sắt đá và trí tuệ sáng suốt của Hồ Chí Minh và của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc ta quyết tâm đứng lên chiến đấu vì độc lập của dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Văn kiện lịch sử quan trọng này chỉ có 205 chữ, song nó đã phác thảo ra những nét cơ bản về đường lối của kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta là: toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến và dựa vào sức mình là chính.

Ngày Toàn quốc kháng chiến là một ngày lịch sử, đánh một dấu mốc son chói lọi trên con đường đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc ta trên 2 phương diện:

Một là, quyết định toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh và Đảng ta, một quyết định đúng đắn vốn là kết quả của một thời kỳ Người và Đảng ta sáng suốt chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt qua những thử thách ghê gớm nhất.

 Hai là, Quyết định  lịch sử này mở ra một thời kỳ kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài đánh bại đế quốc Pháp, mở ra thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.

2. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), chính quyền Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời là chính quyền cách mạng đầu tiên của khu vực Đông Nam Châu Á. Nhưng chính quyền cách mạng non trẻ đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức. Về kinh tế, trận đói năm Ất Dậu (1945) đã giết hại hơn 2 triệu người, nền tài chính đất nước kiệt quệ. Về mặt văn hoá, đa số nhân dân ta rơi vào tình trạng mù chữ do hậu quả của chính sách ngu đần của thực dân Pháp đã duy trì trong suốt quá trình thống trị đất nước ta, làm giảm sức mạnh của một dân tộc.

Sự tồn tại của chính quyền cách mạng và nền độc lập của dân tộc bị đe doạ do sự trỗi dạy mạnh mẽ của nhiều lực lượng phản động trong nước và sự bao vây của các lực lượng quân đội nước ngoài. Từ vĩ tuyến 16 ra Bắc, với danh nghĩa và quân đồng minh đến giải giáp quân đội Nhật, 20 quân Tưởng ô hợp đã tràn vào nước ta với mục tiêu: ''diệt Cộng, cầm Hồ''. Từ vĩ tuyến 16 vào Nam, quân Anh tràn vào, đi theo quân Anh là một đại đội lính Pháp và ngay trong ngày 23/9/1945, quân Pháp đã nổ súng tấn công và xâm lược miền Nam nước ta. Đằng sau những hành động lấn tới đó của các lực lượng nước ngoài vào nước ta đều có sự yểm trợ của Mỹ. Các lực lượng phản động trong và ngoài nước xuất hiện và đến nước ta với nhiều danh nghĩa khác nhau nhưng chúng có cùng chung một mục đích là tiêu diệt chính quyền Việt Nam dân chủ Cộng hoà và nền độc lập dân tộc mà ta mới giành được.

Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đã sáng suốt, chủ động lựa chọn những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời, có hiệu quả những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp nhất trong tình thế vận nước đang ở thế ''ngàn cân treo sợi tóc''. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc đã được coi là nhiệm vụ có tính chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn này.

Một là: Về kiên quốc, củng cố và xây dựng chế độ mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng ta xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng. Tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Một cuộc Tổng tuyển cử thành công sớm nhất trong các cuộc cách mạng trên thế giới. Xây dựng và thông qua Hiến pháp, xác lập cơ sở pháp lý và những nguyên tắc dân chủ của chính quyền nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa các phiên họp của Hội đồng chính phủ, ký hơn 200 Sắc lệnh về tổ chức bộ máy Nhà nước, các Bộ và Uỷ ban hành chính các cấp về tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 2/3/1946, thành lập Chính phủ liên hiệp Kháng chiến. Để diệt ''giặc đói'', Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào ''hũ gạo cứu đói, kêu gọi đồng bào ta sẻ cơm, nhường áo để giúp đỡ lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: ''lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo"(2), Hưởng ứng lời kêu gọi mang đầy nhiệt huyết cách mạng và thấm đậm chất nhân văn dó, cán bộ, nhân dân cả nước dã đồng lòng thực hiện, lá lánh đùm lá rách và tầng bước khắc phục những khó khăn trong đời sống nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: ''một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Do đó, Người khẳng định, dốt cũng là một loại giặc và nhiệm vụ diệt ''giặc đến'' đã được đẩy mạnh thông qua phong trào bình dân học vụ triển khai trên phạm vi toàn quốc.

Hai là: Lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam. Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với Tưởng ở miền Bắc từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946.

Mặc dù luôn xác định kẻ thù chính của dân tộc ta là thực dân Pháp nhưng trong tình thế đầy khó khăn thử thách, để tránh tình trạng cùng một lúc dân tộc ta phải đối phó với nhiều kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra nhiều đối sách phù hợp và sáng tạo. Trước tiên là hoà Tưởng đánh Pháp. Từ tháng 9/1945 đến tháng 3/1946, ta thi hành sách lược hoà hoãn với Tưởng và đẩy mạnh kháng chiến chống Pháp ở miền Nam. Đối sách ngoại giao ''hoà Tưởng'' được thực hiện trong giai đoạn này là: triệt để khai thác, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ quân Tưởng, giữa Tưởng với Pháp, mặt khác nhân nhượng cho chúng một số yêu sách cục bộ, nhất là về kinh tế.

Để mở rộng Mặt trận đoàn kết thống nhất dân tộc cô lập bọn phản động và tay sai, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phải quyết đoán mau chóng, phải dùng mọi phương pháp, dù là những phương pháp đau đớn nhất để cứu vãn tình thế. Đảng phải tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật.

Nhờ sách lược hoà hoãn đó, chúng ta đã làm thất bại âm mưu đen tối của bọn quân phiệt Tưởng và bè lũ tay sai, giữ vững được chính quyền cách mạng non trẻ. Tạm thời biến quân đội Tưởng thành hàng rào ngăn cách quân Pháp đang tìm cách tiến ra Bắc.

Ba là: Tạm thời  hoà hoãn với thực dân Pháp, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc, từ tháng 3/1946 đến tháng 12/1946.

Sau khi chiếm được Sài Gòn và đánh ra Nam Trung bộ, Thực dân Pháp nóng lòng đánh ra miền Bắc. Theo dõi quan hệ Pháp - Hoa, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ cả Pháp và Tưởng sẽ đi đến chấm dứt xung đột, chúng sẽ dàn xếp để Quân Pháp đổ bộ ra Bắc, nên đã đưa ra giải pháp nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do trong khối liên hiệp Pháp với việc Ký Hiệp định Sơ bộ Pháp Việt ngày 6/3/1946.

Việc này đạt được mục tiêu loại bớt kẻ thù. Thúc đẩy quân Tưởng sớm rời khỏi Việt Nam cùng lũ tay sai của chúng. Phía ta có thêm thời gian ngừng chiến và hoà bình mỏng manh để củng cố, xây dựng, phát triển lực lượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi thăm chính thức nước Pháp nhân dịp Hội nghị Phôngtennơbơlô, nhằm giương cao ngọn cờ độc lập và thiện chí hoà bình của Việt Nam. Tiếp tục thực hiện chủ trương "Hoà để tiếng", Người đã ký Bản Tạm ước Việt - Pháp, ngày 14/9/1946.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa chỉ đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ vừa chỉ đạo việc chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chọn toàn quốc lâu dài. Phát triển lực lượng vũ trang. Xây dựng căn cứ địa Việt bắc. Công bố các bài viết, bài nói tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới, phổ biến chiến lược chiến thuật quân sự, xác định tư tưởng, phương hướng của cuộc kháng chiến. Củng cố chính quyền cách mạng.

Từ ngày 2/9/1945 đến 19/12/2006 bắt đầu ngày toàn quốc Kháng chiến, chỉ có 16 tháng với gần 500 ngày đêm; Theo Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử Tập 3 ghi lại, Hồ Chí Minh đã có trên 1300 hoạt động quan trọng chuẩn bị cho ngày Toàn quốc Kháng chiến.

2. Phát động toàn quốc kháng chiến vào ngày 19/12/1946 đó là kết quả của sự lãnh đạo hết sức sáng suốt và tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Như Đại tướng Võ Nguyên Giáp danh giá có quyết định đó là do Hồ Chí Minh và Đảng ta: ''Đã bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Nổ súng phát động toàn quốc kháng chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm thấy trong lịch sử, thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm, sáng tạo''(3).

Lời kêu gọi Toàn quốc khái chiến, là kết tinh trực tiếp của Quyết định đúng đắn, sáng suốt đó. Trong lời kêu gọi lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ nguyên nhân của cuộc kháng chiến. Chỉ ra dã tâm xâm lược muốn đặt ách nô lệ lên dân ta một lần nữa của thực dân Pháp. Người nêu rõ lập trường của dân tộc trước sự lấn tới và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp: ''Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa''(4).

Người đã nêu cao tinh thần yêu nước, quật khởi của dân tộc ta, quyết liệt hành cuộc kháng chiến chính nghĩa để dành độc lập tự đo: ''Không chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ dân quân!

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước''(1).

Người đã phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và chỉ rõ phải đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi quy mô, mọi cách đánh bằng mọi thứ vũ khí, trang bị.

''Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,  người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.

Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(6).

Với niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân, sức mạnh của một dân tộc có truyền thống chống xâm lăng anh hùng, bất khuất, lại có đường lối kháng chiến đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ:

''Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta"(3).

Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ cả dân tộc ta quyết tâm một lòng một dạ đứng lên đánh quân xâm lược. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của ngày Toàn quốc kháng chiến đã liên tục được phát huy trong hơn ba ngàn ngày kháng chiến, chính là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thắng lợi Điện biên lịch sử huy hoàng.

Bài học và ý nghĩa lịch sử của ngày Toàn quốc kháng chiến với hôm nay.

Một là: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quyết định thời điểm phát động cuộc kháng  chiến toàn quốc đúng lúc, đúng thời cơ.

Khi không còn đường nào khác. Khi đã không còn một chút hy vọng nào cứu vãn hoà bình do dã tâm xâm lược và sự ngoan cố của kẻ thù đế quốc thì phải chủ động vùng lên chống lại chúng. Muốn vậy, phải luôn luôn tranh thủ thời gian, chủ động chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, luôn luôn sẵn sàng và khi đã hạ quyết tâm kháng chiến thì phải chủ động và kiên quyết không ngừng thế tấn công kẻ thù xâm lược.

Hai là:  khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ độc lập, tự do, giải phóng dân tộc và những mục tiêu cơ bản của cách mạng nước ta, “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Kiên trì kháng chiến không nao núng trước sức mạnh và mọi sự uy hiếp của kẻ thù. Nêu cao ngọn cờ chủ nghĩa yêu nước, tiếp nói và phát huy truyền thống kiên cường chống ngoại xâm của dân tộc Phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc và tinh thần yêu nước của nhân dân ta.

Ba là: sớm hoạch định đường lối kháng chiến và kiến quốc đứng đắn, sáng tạo.

Để có quyết định Kháng chiến toàn quốc kịp thời đúng lúc, thì trước đó, từ ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” nêu rõ chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc và đường lối Trường kỳ kháng chiến. Ngày 12/12/1946, một tuần trước ngày Toàn quốc kháng chiến, Thường vụ Trung ương Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra bản chỉ thị ''Toàn dân kháng chiến". Trong đó, đã nêu ra mục đích cuộc Trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta. Nêu rõ: Tính chất, Chính sách, Cách đánh, Chương trình, kháng chiến, Cơ quan chỉ đạo kháng chiến, Những điều răn trong khi kháng chiến, Các khẩu hiệu chỉ đạo hành động trong kháng chiến...

Đường lối kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khơi dậy và phát huy đầy đủ sức mạnh của dân tộc, khai thác động viên được sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta.

Bốn là: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sáng tạo một phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng – chiến tranh toàn dân.

Với khoa học, nghệ thuật quân sự độc đáo tổ chức được toàn dân kháng chiến, cả nước đánh giặc, làm giảm hiệu lực hoặc vô hiệu hoá mặt mạnh và sở trường tác chiến của đối phương là thực dân Pháp. Chúng có một đội quân xâm lược nhà nghề với các phương tiện chiến tranh hiện đại hơn hẳn lực lượng võ trang của chúng ta, chúng muốn đánh nhanh thắng nhanh nhưng cuối cùng đã bị thất bại thảm hại.

Hôm nay, nghiên cứu, học tập, ôn lại những hoạt động quan trọng, đúng đắn, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí minh với Ngày toàn quốc kháng chiến, thật sự là một việc làm cần thiết và có nhiều ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.

Chúng ta thêm tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng ta.

Ôn cố tri tân, chúng ta thêm kiên trì sự nghiệp đổi mới với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tin tưởng và tự hào vì thực tiễn lịch sử 60 năm qua chứng tỏ rằng nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn. Nhân dân ta rất anh hùng, có Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng và đường lối đúng đắn của Đảng thì khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Sự nghiệp cách mạng, đổi mới nhất định sẽ thành công.

Nguồn Giáo dục lý luận. – 2006. – Số 12. – Tr. 22-27

1 - 10 Tiếp theo