Rõ ràng, đây là vùng đất được khai thác sau cùng ở Nam bộ. Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào Nam kinh lược, lập ra hai huyện Phước Long và Tân Bình cho thuộc hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, gọi chung là Gia Định phủ, trên phần đất từ sông Đồng Nai đến sông Tiền. Sau biến cố này, Mạc Cửu không còn tin tưởng vào sự bảo vệ của Chân Lạp trước áp lực đông tiến của Xiêm. Vì tương lai của Hà Tiên và do tình cảm riêng (ông lấy vợ Việt người Biên Hòa tên Bùi Thị Lẫm), khiến Mạc Cửu đi đến quyết định xin cho Hà Tiên nội thuộc xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn vào năm Mậu Tý (1708).
Như vậy, đến thời điểm giữa thế kỷ XVIII, dinh Phiên Trấn đến sông Tiền và trấn Hà Tiên đến bờ sông Hậu, vùng đất Tầm Phong Long nằm giữa sông Tiền và sông Hậu vẫn còn hoang vắng, chưa nội thuộc chủ quyền chúa Nguyễn.
Sử cũ chép năm Đinh Sửu (1757) quốc vương Chân Lạp là Nặc-nguyên mất, chú họ Nặc-nhuận đang làm giám quốc, xin hiến đất Srok Treang (tức đất Ba Thác gồm Sóc Trăng - Bạc Liêu) và Préah Trapeang (tức đất Trà Vang gồm Trà Vinh - Bến Tre) cầu xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp, chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát chấp thuận. Nhưng liền sau đó Nặc-nhuận bị con rể là Nặc-hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc-nhuận là Nặc-tôn, chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ vương thuận cho, và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia Định Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc-hinh và đưa Nặc-tôn về nước. Nặc-tôn được phong làm phiên vương.
Để tạ ơn Nặc-tôn cắt đất Tầm Phong Long (tức vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, về phía bắc Longhor/Vĩnh Long ngày nay) dâng cho chúa Nguyễn. Vùng đất này, được Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh lập thành ba đạo:
- Đông Khẩu đạo bao gồm các huyện Châu Thành, thị xã Sa Đéc, huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Trị sở đồn trú tại Sa Đéc (thôn Vĩnh Phước).
- Tân Châu đạo bao gồm phần đất của các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Phú Châu và Tân Châu của tỉnh An Giang ngày nay.
- Châu Đốc đạo bao gồm phần đất phía tây bắc sông Hậu, chạy dài đến Hà Tiên.
Cả ba đạo mới này đều đặt dưới chế độ quân quản do dinh Long Hồ kiêm quản.
Đây là vùng đất xa xôi, đất đai rộng nhưng lại nằm ở vị trí then chốt về mặt an ninh quốc phòng. Ngay trong buổi đầu, ta chưa đủ binh lực bố phòng, chỉ có một số đồn bảo dọc theo biên giới như các bảo Vĩnh Thông, Vĩnh Lạc, Thân Nhơn, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều cư dân người Việt thưa thớt chỉ sống bám quanh các bảo để được an toàn.
Đến thời Gia Long, vùng này vẫn còn hoang vu, nên vua lệnh quan địa phương mộ dân đến khai khẩn, đặt quan quản đạo cai trị, vẫn thuộc quyền cai quản của trấn Vĩnh Thanh, nơi địa đầu quan ải của trấn Vĩnh Thanh với Chân Lạp.
Từ vàm sông Châu Đốc (sông Hậu) ngược lên phía bắc tiếp giáp vùng Thất Sơn rồi sông Giang Thành, kéo dài đến vịnh Xiêm là đường biên giới giữa ta và Chân Lạp rất mơ hồ. Để bảo vệ vùng giới tuyến địa đầu quan trọng không kém biên cương phía bắc, năm Gia Long thứ 14 (1815), triều đình ra lệnh cho trấn thủ Vĩnh Thanh, Lưu Phước Tường tập họp 3000 dân binh đào hào, đắp lũy xây dựng đồn Châu Đốc ở phía tây sông Hậu, có giao thông hào ăn thông với sông này, để tiện chuyển quân khi có biến. Xây xong, vua thông báo cho quốc vương Chân Lạp biết đồn Châu Đốc chẳng những bảo vệ Hà Tiên mà còn ứng cứu Nam Vang.
Để khai thác vùng tân cương, đồng thời để xác định biên giới rõ rệt giữa hai nước, mặc dù có sự can ngăn của quan lớn Sen Nguyễn Văn Nhơn, năm 1817, vua Gia Long vẫn lệnh cho Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đào kinh núi Sập (sau gọi là Thoại Hà). Hai năm sau (1819) lại cho đào kinh Vĩnh Tế, kéo dài 5 năm mới xong.
Hai con kinh này quả có tác dụng vô cùng quan trọng trong công cuộc mở mang kinh tế và giữ yên bờ cõi. Ngay khi kinh Vĩnh Tế đào chưa hoàn tất đã thu hút lưu dân đến dâng đơn xin khai khẩn sinh sống. Lúc bấy giờ Nguyễn Văn Thoại là Khâm sai Thống chế, án thủ đồn Châu Đốc, lãnh ấn Bảo hộ Cao Miên quốc, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ, chỉ cần ông phê duyệt và đóng dấu Bảo hộ Cao Miên quốc chi chương vào đơn là coi như lưu dân có bằng khoáng đất (sổ đỏ). Nên chỉ hơn mươi năm, đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832), Châu Đốc tân cương thành được hai phủ:
- Tuy Biên gồm hai huyện Tây Xuyên, Phong Phú.
- Tân Thành có hai huyện là Vĩnh An và Đông Xuyên.
Đây là cương vực ban đầu của tỉnh An Giang. Đến năm 1835, lấy đất Ba Thác lập thêm phủ Ba xuyên, cai quản ba huyện Phong Nhiêu, Phong Thanh và Vĩnh Định. Tiếp theo năm 1839, lập thêm huyện An Xuyên ở phủ Tân Thành, năm 1842 lấy phủ Tịnh Biên và huyện Hà Dương của Hà Tiên sáp nhập vào. Đến năm 1844, lập thêm huyện Hà Âm. Năm 1850, giải thể phủ Tịnh Biên cùng huyện Hà Âm, lấy đất này nhập vào huyện Hà Dương.
Như vậy đến khi Tự Đức lên ngôi, tức là gần tròn 100 năm sau khi thuộc chủ quyền người Việt, vùng Châu Đốc được khai mở với tiến độ khá nhanh, thành lập 274 xã thôn, phường bang, được quy vào hai phủ với 10 huyện, nằm trong địa phận tỉnh An Giang, tỉnh thành đặt tại Châu Đốc:
- Phủ Tuy Biên, có ba huyện:
+ Tây Xuyên gồm ba tổng với 38 xã, thôn, phố bang.
+ Phong Phú gồm ba tổng với 31 thôn.
+ Hà Dương (tức Lình Quỳnh) có 4 tổng với 40 thôn, phố phường.
+ Hà Âm (tức Giang Thành) gồm 2 tổng, 40 xã thôn.
- Phủ Tân Thành có ba huyện:
+ Vĩnh An gồm 4 tổng với 36 xã thôn, phố, bang, huyện lỵ đóng tại thôn Vĩnh Phước (Sa Đéc).
+ An Xuyên gồm 3 tổng với 25 xã thôn, huyện lỵ đặt tại thôn Tân Hựu.
+ Đông Xuyên gồm 4 tổng với 33 xã thôn, huyện lỵ đóng ở thôn Long Sơn.
- Phủ Ba Xuyên có hai huyện:
+ Phong Nhiêu gồm 3 tổng với 17 xã thôn, huyện lỵ tại thôn An Khánh
+ Vĩnh Định gồm 4 tổng với 19 xã thôn, huyện lỵ tại thôn Đại Hữu.
Năm 1867, Pháp chiếm An Giang, cưỡng chiếm thành Châu Đốc đêm 21-6-1867. Sau đó, họ chia An Giang làm 5 hạt (rồi đổi hạt thành tỉnh): Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc…
Ngày nay vùng này thuộc địa phận các tỉnh An Giang, Tp.Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và các huyện nam sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp.
Tháng 11, năm Quý Tỵ (1833), nhân cơ hội Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm Gia Định thành, quân Xiêm do tướng Bodin (Phi Nhã Chất Tri) thống lĩnh 3 vạn binh thủy bộ, mở bốn mặt trận nghi binh dọc theo biên giới Việt Lào, hỗ trợ mũi chính diện đánh thần tốc chiếm Hà Tiên và Châu Đốc vào cuối năm 1833, với ý đồ xuôi dòng Tiền Giang chiếm Sa Đéc rồi Vĩnh Long, Mỹ Tho, cuối cùng chiếm thành Gia Định, nơi Lê Văn Khôi đang bị quân triều đình vây hãm.
Nhưng bị quân ta dưới sự chỉ huy của Thượng tướng Trần Vãn Năng tổ chức trận địa mai phục trên sông Vàm Nao, ở đoạn Cổ Hủ, phá tan. Thừa thắng ta xua quân chiếm lại Châu Đốc và Hà Tiên và tiến lên giải phóng Phnôm Pênh.
Năm 1840, người Chân Lạp ở Tịnh Biên nổi loạn, quan phủ hoảng sợ, bỏ trốn. Loạn quân kéo về Hà Tiên đánh phá đồn Châu Nham (Đá Dựng). Trong khi đó 2000 loạn quân khác từ Thất Sơn xuống đánh phá Rạch Giá, rồi đóng đồn trụ lại. Vùng biên giới Thất Sơn -Vĩnh Tế (huyện Hà Dương, Hà Dương) chìm trong khói lửa chiến tranh. Sở dĩ loạn quân dám ngạo mạng như vậy là vì lúc bấy giờ tướng Bodin (Phi Nhã Chất Tri) của Xiêm đóng đồn dọc theo kinh Vĩnh Tế (trên đất Chân Lạp) hỗ trợ và xúi dục. Triều đình phái Nguyễn Tri Phương mang quân đánh dẹp suốt cả năm mới yên.
Đến tháng 9 năm Tân Sửu (1841), lợi dụng khi quân ta do Trương Minh Giảng thống lĩnh, rời Chân Lạp về nước, người Xiêm dựng lên một hoàng tôn, tập hợp một số người Lào, Chân Lạp, Việt...về nước giành lại ngôi báu, dưới sự bản trợ của họ. Ở đây người Xiêm tiếp tục khai thác mâu thuẫn giữa Lê Văn Duyệt và vua Minh Mạng để can thiệp vào nội tình nước ta. Nguyên khi Hoàng thái tử Cảnh qua đời vào năm 1801, Gia Long không lập con cháu dòng chánh làm thái tử kế vị (tức con của hoàng thái tử Cảnh là Nguyễn Phước Mỹ Đường), mà chọn con dòng thứ là hoàng tử Phúc Kiểu, huý là Đảm, làm thái tử tức Minh Mạng sau. Sở dĩ Gia Long bỏ trưởng lập thứ, vì Mỹ Đường theo đạo Thiên Chúa, nhưng Lê Văn Duyệt không hiểu ngầm ý của Gia Long hết lời can ngăn.
Để thực hiện âm mưu này, tháng Giêng năm Nhâm Dần (1842) Phi Nhả Chất Tri sai tướng Ô Thiệt Vương cho thủy quân tấn công Phú Quốc thăm dò, còn trên bộ, cho khoảng 5.000 quân hộ tống hoàng tôn đến Sách Sô (thuộc hạt Nam Ninh, trấn Tây Thành) và 10 thuyền đến đồn Cần Thăng thám sát, kích động người Chân Lập nổi dậy ở phủ Ba Xuyên, Sóc Trăng, Thất Sơn... Qua tháng 2, chúng xua đại quân tràn qua kinh Vĩnh Tế kết hợp với quân nổi dậy đánh phá các đồn Thất Sơn, Tân Châu, An Lạc, Hồng Ngự, Thông Bình... cướp bóc, bắn giết... gây thảm cảnh tang tóc thê lương khắp tuyến biên giới, nhất là ở Hà Tiên, chúng dùng súng lớn (bắn bằng viên đạn 3 tấc rơi xuống tan như mưa) bắn suốt ngày đêm, gây nhiều thiệt hại cho dân thường (trong dân gian gọi là giặc Hà Tiên). Quân triều huy động quân binh cả sáu tỉnh Nam kỳ do tổng đốc Định-Biên Lê Văn Đức làm tổng thống quân vụ, thự tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, tổng đốc An Hà Phạm Văn Điển cùng đề đốc An Giang chia đường cùng nhân dân địa phương ra sức đương cự với giặc trên một tuyến dài từ Tiền Giang qua Hậu Giang, qua Thất Sơn đến tận Hà Tiên. Bước đầu ngăn chặn được sức tiến của giặc, nhưng chúng chưa chịu rút lui, mà xây thành đắp lũy trụ lại ở núi Cô Tô, một vị trí hiểm ở thất Sơn, với âm mưu chiếm đóng lâu dài.
Đến tháng 5, ta tăng cường quân số, chia làm năm mũi tiến đánh, phá tan chiến lũy ở núi Cô Tô của quân giặc, có đến cả ngàn ra hàng trong đó phần lớn là người Hoa và Chân Lạp. thừa thắng ta truy đuổi giặc đến tận Phnôm Pênh và Kompong Luông. Về thành Châu Đốc, tháng Giêng năm: Quý Tỵ (1833) vua Minh Mạng thấy đồn Châu Đốc chật hẹp, chưa được tiện lợi, nên khiến cho quan Giám thành Trấn thủ Ngô Bá Nhơn, nhắm lựa chỗ nào sảng khái và đón được hai ngả sông Tiền, sông Hậu, mà đường đất vừa cân để làm thành tỉnh. Rồi chọn xứ Long Sơn ở miệt thượng du, địa thế cao ráo, qua lại tiếp ứng, thiệt là chỗ hình thế hiểm trở, bèn đem việc ấy tâu lên. Vua khiến Bộ công vẽ đồ thức đắp thành. Nhưng do tình hình biên giới lúc bấy giờ rất phức tạp, hễ dẹp yên nơi này thì nơi khác lại ứng lên, thành thử việc dời thành tỉnh bị bỏ trôi, cuối cùng vẫn giữ y ở Châu Đốc.
Nếu trong buổi đầu Thoại Ngọc Hầu là người đã từng trực tiếp đốc suất việc đào kinh Vĩnh Tế, mở ruộng lập vườn, đắp nhiều đường, bắc cầu để phục vụ yêu cầu giao thông trong xứ và với nước láng giềng Chân Lạp, thì sau đó Doãn Uẩn, Tổng đốc An Hà, ngoài đại công dẹp loạn, ông còn đặc biệt quan tâm ổn định đời sống nhân dân, chăm lo cả về sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng, tạo niềm tin, chỗ dựa tinh thần với ước vọng an lành cho vùng biên giới tây nam Tổ quốc. Chùa Tây An được Doãn Uẩn chủ trương xây trong niềm ước vọng đó.
Hai trăm năm sau (1997), Thủ tướng Võ Văn Kiệt kế tục tầm nhìn chiến lược của người xưa cho đào các kinh T4, T5 và T6 với tổng chiều dài 100km, góp phần xả nước sông Hậu ra biển. Trong đó, kinh T5 (kinh Võ Văn Kiệt) quan trọng nhất dài 48km, nối liền từ xã Lạc Quới (Vĩnh Tế - An Giang) đến Hòn Đất (Kiên Giang), tạo thêm màu xanh của lúa trên cánh đồng tứ giác Long Xuyên. Trên vùng lúa mênh mông này, ngày nay hiện lên thành phố Long Xuyên trẻ trung năng động đầy sức sống trong thời hiện đại hóa công nghiệp hóa với tượng đài "Con Cá Basa”, bên cạnh thị xã Châu Đốc cổ kính hiền hòa đang vươn mình lên trong xu thế phát triển của cả nước; người vẫn không quên "giặc Hà Tiên" và những người đã nằm xuống trong chiến đấu bảo vệ biên cương thuở nào:
…Bậu lỡ thời như nhái lột da,
Nhái lột da người ta còn bắt
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên,
Giặc Hà Tiên người ta còn đánh...
Với hình ảnh thê lương tang tóc nơi chiến địa, được nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa khắc họa lại khi qua vùng Hà Âm (Hà Tiên - Vĩnh Tế):
Mù mịt mây đen kéo tối sầm,
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm.
Đống xương vô định xương phao trắng,
vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm
Gió chốt dật dờ nơi chiến lũy,
Đèn trời leo lét dặm u lâm
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi,
Dắng dỏi đêm trường tiếng dế ngâm.
Nguyễn Hữu Hiếu
Chú thích:
(1) Quốc sử quán (1972) Đại Nam nhất thống chi lục tỉnh Nam Việt, Phú QVKĐTVH, Sài Gòn, tr2.2.
(2) Hãn Nguyên (1970): Hà Tiên, Chìa khóa Nam tiến của dân tộc Việt Nam xuống đồng bằng sông Cửu Long, Tập san sử Địa số 19-20, 1970, Sài gòn.
(3) Về niên đại Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn, có một số tài liệu ghi là năm 1714. Ngay trong Gia Định thành thông chí, cùng trong Q.III (tập trung) Trịnh Hoài Đức cũng ghi năm 1714 ở phần Cương vực chí (tr.13), nhưng ở phần trấn Hà Tiên (tr.79) lại ghi là 1708. Vấn đế này đã có nhiều tranh luận và năm 1708 có lẽ hợp lý hơn. Xem thêm Trương Minh Đạt Nhận thức mới về Hà Tiên, Nxb Trẻ, 2001, tr.39-50.
(4) Quốc sử quán (1972) Đại Nam nhất thống chí lục tỉnh Nam Việt, Phủ quốc Vụ khanh đặc trách văn hóa (Sài Gòn), tr.9.
(5) Nguyễn Đình Đầu, (1994) Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – Tỉnh An Giang, tr. 200-254. (6) Quốc sử quán (1960) Đại Nam thực lục chính biên, Q.27, tr.63.
Tạp chí Xưa và Nay số 356 tháng 5 năm 2010 (tr.2 và tr.26-29)