Thư viện Tỉnh Đồng Nai > Thầy Giáo Việt Nam 10 Thế Kỷ
|
Thầy Giáo Việt Nam 10 Thế Kỷ |
|
Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748)
(13/11)
|
Đoàn Thị Điểm là một Nữ sĩ được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp và tài văn chương. Bà là tác giả tập truyện Truyền kỳ tân phả và là dịch giả bản Chinh phụ ngâm của tác giả Đặng Trần Côn.
|
Nguyễn Trãi (1380-1442)
(13/11)
|
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần. Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
|
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585)
(13/11)
|
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả hai thân mẫu đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương.
|
Chu Văn An (1292 - 1370)
(12/11)
|
Chu Văn An (1292 - 1370) còn được gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì), Hà Nội. Những ghi chép về nghiệp học của ông thuở thiếu thời hiện không thống nhất. Có sách ghi ông thi đỗ Thái học sinh (Tiến sỹ), lại có ý kiến khác cho rằng ông không đỗ đạt gì. Đời Vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được mời ra giữ chức Tư nghiệp Trường Quốc Tử Giám
|
Thầy Lê Văn Hưu (1280 - 1822)
(12/11)
|
Ông là người hương Phủ Lý, nay là xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Đỗ bảng nhãn năm 1247, được giữ chức Học sĩ viện Hàn lâm kiêm giám tu quốc sử. Cuối đời thăng thượng thư bộ Binh, tước Nhân uyên hầu.
|
|
|
|
|
|
|