Bỏ qua nội dung chính

Điện Biên Phủ - Những Ký Ức Hào Hùng

Tìm kiếm
Trang chủ
Tra cứu
Tài Liệu Số
Thư viện Koha
Văn bản
Youtube
Gallery
  

Danh mục
Không có khoản mục nào trong danh sách này.
Blogs khác
Không có khoản mục nào trong danh sách này.
Liên kết
Không có khoản mục nào trong danh sách này.

Thư viện Tỉnh Đồng Nai > Điện Biên Phủ - Những Ký Ức Hào Hùng > Bài đăng > Những anh hùng góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên huyền thoại (Phần I)
Những anh hùng góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên huyền thoại (Phần I)

Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi quyết định, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta, tạo điều kiện đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954), công nhận nền độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Để làm nên chiến thắng lững lẫy đó là sự đoàn kết, góp sức của cả dân tộc Việt Nam anh hùng. Rất nhiều tấm gương của các chiến sĩ cách mạng vẫn được nhắc nhớ cho đến ngàn đời sau. Nhân kỷ niệm 65 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 – 2019, bài viết xin giới thiệu đến bạn đọc 24 chiến sĩ tiêu biểu của Quân đội Nhân dân Việt Nam được phong hoặc truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì thành tích chiến đấu trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

1. Anh hùng Liệt sĩ Trần Can: (1931 - 1954), tại xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ năm 1951 tại Trung đoàn 209, Đại đoàn 312. Trong trận Him Lam, đồng chí chỉ huy tiểu đội đánh chiếm hầm chỉ huy, là người đầu tiên trong chiến dịch cắm cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” lên nóc hầm chỉ huy địch. Tiếp đó, trong trận đánh ở điểm cao 507, anh đã chỉ huy tiểu đội đánh chiếm cột cờ, giành giật từng tấc đất với kẻ thù. Khi cả Ban chỉ huy Đại đội hy sinh, mặc dù bị thương, Trần Can vẫn chỉ huy đại đội tiếp tục chiến đấu giành thắng lợi. Trần Can hy sinh trong trận đánh cuối cùng của chiến dịch, sáng 7-5-1954.

2. Anh hùng Dương Quảng Châu (Dương Ngọc Chiến): Sinh năm 1929, tại xã Quảng Châu, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, nhập ngũ năm 1948 vào Đại đội quân báo thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308. Đồng chí từng nhiều lần mưu trí tiếp cận mục tiêu, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trinh sát nội - ngoại tuyến phục vụ chiến đấu thắng lợi. Đồng chí nhiều lần phải chiến đấu thoát vòng vây, tiêu diệt và bắt sống nhiều tên địch, có lần anh một mình mưu trí bắt sống 33 tên địch… Trong trận đánh chiếm cứ điểm 206 ở đợt 2, đồng chí Châu chỉ huy tiểu đội quân báo trực tiếp chiến đấu giành giật từng mét hào, giữ vững trận địa mặc dù đã bị thương nặng.

3. Anh hùng Bùi Đình Cư: Sinh năm 1927, tại xã Việt Tiến, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nhập ngũ năm 1949 ở Binh chủng Pháo binh. Đồng chí đã có nhiều hành động nổi bật, như: Một mình vác nòng súng cối nặng hơn 100kg chạy hơn 3km để nêu gương động viên anh em. Trận đánh đồn Him Lam, đồng chí đã bình tĩnh liên tục bắn hơn 30 quả pháo, đánh sập lô cốt, chi viện đắc lực cho bộ binh. Trận đánh đồn Độc Lập, đồng chí dũng cảm chỉ huy tiểu đội xông vào tháo súng địch vác ra, thu được ba khẩu cối 120 ly và bắn loạt pháo “tranh thủ” vào cứ điểm Độc lập để phá hoại một phần công sự và uy hiếp quân địch.

4. Anh hùng Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện: (1924 – 1954), xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, xung phong đi bộ đội năm 1949, vào Đại đội 827 thuộc Trung đoàn phòng không 367. Đồng chí là Khẩu đội trưởng pháo cao xạ, khi đơn vị kéo pháo ra để thay đổi cách đánh mới, đồng chí Diện cùng một đồng chí nữa đi trước cầm càng pháo. Đến đoạn xuống dốc, dây tời bị đứt, anh vẫn ghì chặt càng pháo điều khiển hướng lao của pháo vào vách núi. Trong khoảnh khắc, đồng chí đã lấy thân mình chèn bánh xe để pháo không lao xuống vực. Khi được đồng đội ứng cứu, anh chỉ kịp hỏi: “Pháo có việc gì không?” rồi kiệt sức, hy sinh.

5. Anh hùng Hoàng Khắc Dược: Sinh năm 1917, tại xã Mỹ Xá, Tp. Nam Định, tỉnh Nam Hà, nhập ngũ năm 1947, được phân công làm công tác nuôi quân, sau là tiểu đội trưởng nuôi quân thuộc trung đoàn 66, đại đoàn 304. Đồng chí rất chịu khó, chu đáo, không hề phàn nàn hay kêu ca gì dù cho muôn vàn khó khăn, đồng chí thường gánh 30, 40 kg chạy theo đơn vị, đảm bảo đủ cơm, nước cho bộ đội. Ban ngày nấu cơm, kiếm củi, chiều tối lại đi 8,9 cây số tìm mua thức ăn, đồng chí vẫn vui vẻ phục vụ chu đáo bộ đội.

6. Anh hùng Liệt sĩ Bế Văn Đàn: (1931 - 1954), xã Quang Vinh, huyện Phục Hoàm tỉnh Cao Bằng, xung phong nhập ngũ vào năm 1949. Đồng chí làm liên lạc, đưa đơn vị hành quân. Trong một lần đánh quân địch ở Mường Pồn, đồng chí dũng cảm vượt qua đạn thù, vào truyền lệnh kịp thời cho quân ta. Địch phản công hai lần, đều bị quân ta đánh chặn. Lần thứ 3 càng dữ dội hơn, quân ta thương vong đã nhiều, đồng chí cũng bị thương nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên  không bắn được vì không có chỗ đặt súng, không ngần ngại đồng chí cầm hai chân khẩu trung liên đặt lên vai mình để đồng đội tiêu diệt liên tiếp hàng chục tên. Địch hốt hoảng bỏ chạy. Nhờ vậy đợt phản kích bị bẻ gãy. Đồng chí bị thêm hai vết thương, đã anh dũng hy sinh.

7. Anh hùng Liệt sĩ Phan Đình Giót: (1922 – 1954), xã Tam Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; xung phong đi bộ đội năm 1950, được biên chế vào Đại đoàn 312, tham gia nhiều chiến dịch lớn. Đồng chí là Tiểu đội phó thuộc Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, tham gia trận mở màn vào cứ điểm Him Lam. Khi đơn vị xung phong băng qua cửa mở đánh vào trung tâm, bị địch trong lô cốt bắn trả dữ dội. Mặc dù bị thương nặng khi đánh bộc phá hàng rào cuối cùng, Phan Đình Giót vẫn cố trườn lên dùng lựu đạn và tiểu liên tiêu diệt hỏa điểm địch. Hết đạn, anh đã lao cả thân mình bịt lỗ châu mai cho đồng đội xông lên giành chiến thắng.

8. Anh hùng Đặng Đình Hồ: Sinh năm 1925, tại xã Thanh Bình, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, nhập ngũ năm 1950 tại Trung đoàn 57, Đại đoàn 304. Đồng chí từng lập công xuất sắc trong nhiều trận đánh. Đặc biệt, đồng chí Hồ chỉ huy đơn vị đánh chiếm khu C ở phía đông Hồng Cúm, dưới làn đạn của địch từ các khu A và B bắn xối xả sang, cùng pháo địch từ Mường Thanh bắn xuống. Khi áp sát địch, hai bên đánh giáp lá cà, đồng chí bị thương vào mắt và tay, nhưng vẫn chỉ huy đơn vị chiến đấu thắng lợi.

9. Anh hùng Trần Đình Hùng: Sinh năm 1931, tại xã Đại Đồng, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, nhập ngũ năm 1950 tại Trung đoàn 36, Đại đoàn 308. Đơn vị của đồng chí có nhiệm vụ xây dựng các trận địa phía tây Mường Thanh. Riêng Khẩu đội DKZ của anh đã chiến đấu quyết liệt tại các điểm hỏa lực đồi 106, đồi 311, điểm 206… Có trận, các anh chỉ có 1 khẩu DKZ và dăm tay súng trường, nhưng đánh bật cả tiểu đoàn địch; bắn cháy xe tăng địch bằng cách ngắm thẳng qua nòng súng khi hỏng kính ngắm.

10. Anh hùng Phùng Văn Khầu: Sinh năm 1930, tại xã Đức Hồng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, nhập ngũ năm 1949 vào Đại đội 755 thuộc Đại đoàn Pháo binh 351, từng tham gia 7 chiến dịch lớn và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Đồng chí chỉ huy khẩu đội pháo 75 khống chế khu trung tâm Mường Thanh, chi viện cho bộ binh tiêu diệt các điểm cao xung quanh. 36 ngày đêm chiến đấu liên tục dưới bom đạn ác liệt, nhiều lần anh bị ngất nhưng lại vùng dậy chiến đấu, góp phần đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

11. Anh hùng Chu Văn Khâm: Sinh năm 1925, tại xã Minh Đức, huyễn Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú, nhập ngũ năm 1947 vào đơn vị bộ binh. Đồng chí đã trực tiếp tham gia chiến đấu nhiều trận, diệt được 22 tên địch, phá hủy 1 lô cốt, 1 xe quân sự, đánh bộc phá phá nhiều hàng hóa của địch. Đồng chí nhận nhiệm vụ phá cầu, chặn đường tiếp viện của địch, chở phà cho độ đội qua sông, đảm bảo đường vận chuyển cho chiến dịch, phá bom mìn,... Dù nhận nhiệm vụ nào, đồng chí cũng làm rất tốt.

12. Anh hùng Tạ Quốc Luật - Người anh hùng bắt sống tướng giặc De Castre: Sinh năm 1925, tại xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Đồng chí làm cán bộ Trung đội, rồi Đại đội trưởng ở Đại đoàn 312; trực tiếp chỉ huy đơn vị tham gia nhiều trận đánh nổi tiếng trong các chiến dịch lớn. Đặc biệt, đồng chí đã chỉ huy đại đội lập nhiều chiến công xuất sắc, trong đó có chiến công bắt sống tướng Đờ Cát cùng bộ tham mưu của địch chiều 7-5-1954.

 

Đào Thanh

 

 

 

 

Comments

Không có nhận xét nào cho bài đăng này.