Trong điều kiện một nước nhỏ chống lại quân xâm lược của nước lớn, qua kinh nghiệm thành bại của nhiều cuộc chiến, dân tộc Việt Nam đã sớm xác lập tư tưởng quân sự “Dĩ đoạn chinh chế trường trận” (Trần Quốc Tuấn), “Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” (Nguyễn Trãi), dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân thực hiện chiến tranh nhân dân. Điều đó đã lặp lại nhiều lần như một quy luật trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), được hình thành dần trong tính toán của cả hai phía tham chiến trong Đông Xuân 1953-1954 mà về phía quân đội Việt Nam người đứng mũi chịu sào chính là Đại tướng Võ Nguyên Giáp - tổng tư lệnh khi mà những thay đổi của ông ảnh hưởng đến toàn bộ trận chiến.
Bộ Chính trị trong phiên họp tháng 10 tại Tin Keo (Định Hóa - Thái Nguyên), đã xem xét kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 của Tổng quân ủy, xác định phương châm chung là “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và tác chiến là “đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt; chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh; giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng” và thông qua hướng hoạt động lấy Tây Bắc làm chính, các hướng khác là phối hợp.
Việt Nam buộc địch phân tán lực lượng theo tư tưởng chỉ đạo của Bác Hồ: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh. Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn”.
Đây là đặc điểm xuất hiện lẩn đầu tiên trong các trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của Việt Nam. Đặc điểm này phản ánh tính hiện đại của cuộc chiến tranh khi mà các phương tiện thông tin và do thám hiện đại cho phép mỗi bên có thể theo dõi được âm mưu và toan tính của đối phương. Nghiên cứu trận Điện Biên Phủ, ai cũng nhận biết một đặc điểm nổi bật là sự thay đổi cách đánh về phía Việt Nam, chuyển phương châm chỉ đạo tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh, sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Ngày 26/11/1953, bộ phận tiền phương của Bổ Tổng tư lệnh lên đường đi Tây Bắc chuẩn bị chiến trường và phương án tác chiến. Ngày 9/12, bộ phận tham mưu trên cơ sở phân tích,đánh giá tình hình địch ở Điện Biên Phủ đang ở trạng thái lâm thời phòng ngự, chưa kịp xây dựng cộng sự vững chắc và đưa ra hai phương án: đánh nhanh, hoặc đánh chắc. Sau khi cân nhắc thuận lợi và khó khăn, đã chọn phương án “đánh nhanh, thắng nhanh”, chủ trương cần tranh thủ đánh sớm, đánh nhanh bằng sức mạnh hiệp đồng của bộ binh và pháo binh. Đó là cách mà Cố vấn Mai Gia Sinh gọi là ‘ba tâm tạng chiến thuật” (chiến thuật moi tim) dùng mũi thọc sâu “như một gươm đâm thẳng vào tim, tạo nên sự rối loại ở trung tâm phòng ngự địch ngay từ đầu, rồi từ trong đánh ra từ ngoài đánh vào, tiêu diệt địch trong thời gian tương đối ngắn” Lúc đó binh lực của địch ở Điện Biên Phủ đã tăng lên 10 tiểu đoàn bộ binh có 16 pháo 105, sở chỉ huy, trận địa pháo, một sổ cứ điểm đang xây dựng, sân bay Mường Thanh đang được sửa chữa và đã có 6 máy bay tiêm kích F8F Bearcats.
Ngày 5/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh và bộ phận nhẹ của Bộ Chỉ huy chiến dịch lên đường ra mặt trận. Sáng ngày 12/1, tại Tuần Giáo, khi nghe tướng Hoàng Văn Thái báo cáo tình hình và phương án tác chiến, Đại tướng đã nhận thấy “ngay bây giờ đánh nhanh đã khó. Rồi đây hẳn càng khó” và “cần tìm hiểu thêm tình hình”. Chiều hôm đó đến chỉ huy sở ở Thẩm Púa, Đại tướng hội ý ngay với Đảng ủy mặt trận, tất cả đều tán thành chủ trương “đánh nhanh, thắng nhanh” và tin rằng có thể giành thắng lợi trong vài ngày đêm. Tối hôm đó, Đại tướng lại gặp trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh, đại tá Hoàng Minh Phương làm phiên dịch. Trong trao đổi ý kiến, Cố vấn Vi Quốc Thanh tán đồng phương án đánh sớm, đánh nhanh do cán bộ tham mưu Việt Nam và cố vấn Trung Quốc đã nhất trí đề xuất. Sau khi cân nhắc về những băn khoăn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Cố vấn Vi nói: “Nếu không tranh thủ đánh sớm khi địch còn đứng chân chưa vững, để nay mai chúng tăng cường quân và củng cố công sự thì không đánh được, ta sẽ bỏ lỡ mất thời cơ”. Trong hồi ký của mình, Đại tướng và Hoàng Minh Phương đều thống nhất ghi nhận nội dung của buổi trao đổi này
Với tất cả tài năng, kinh nghiệm và sự nhạy bén của một vị Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận thấy “phương án đánh nhanh, thắng nhanh là quá mạo hiểm”, nhưng mới đến mặt trận, chưa hội đủ cở sở thực tế để bác bỏ, trong lúc toàn bộ Đảng ủy và các cố vấn lại nhất trí với phương án đó. Trước khi ra trận, Bác Hổ trao lại cho Đại tướng nhiệm vụ “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Phải chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh” và căn dặn: “Tướng quân tại ngoại, giao cho chú toàn quyển. Có vấn để gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định rồi báo cáo sau”. Đại tướng được Hồ chủ tịch và Bộ Chính trị tín nhiệm giao chi quyền lực tập trung về quân sự: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Bí Thư quần ủy Trung ương, Tổng tư lệnh quân đội và trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tướng H. Nava đã từng nói: “tôi phát ghen với tướng Giáp”. Nhưng cũng chính vì trọng trách và sự tín nhiệm đó, Đại tướng đứng trước một tình thế rất khó xử: biết phương án tác chiến mạo hiểm, ít khả năng thắng lợi, thậm chí có thể thất bại, nhưng lại được Đảng ủy và các cố vấn nhất trí tán thành, quần sĩ đang trong khí thế và quyết tâm cao. Bác Hồ giao cho Đại tướng toàn quyển quyết định, nhưng khi quyết định phải được sự thống nhất trong Đảng ủy và với cố vấn. Thời gian cũng không cho phép báo cáo xin ý kiến Bác và Bộ Chính trị (không dám dùng điện đài vì sợ lộ bí mật).
Đại tướng ở vào thế đơn độc và đành phải tạm thời cho triển khai phương án, ngày 14/1 triệu tập hội nghị cán bộ, phổ biến mệnh lệnh chiến đấu với dự kiến trận đánh diễn ra trong 2 ngày 3 đêm, giờ nổ súng định là 16 giờ ngày 20/1. Phương án đánh nhanh, thắng nhanh coi như được công nhận là chủ trương thống nhất của Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch và các cố vấn Trung Quốc. Trong lúc đó, Đại tướng chỉ thị cơ quan tham mưu theo dõi chặt chẽ tình hình địch và thúc đẩy công việc chuẩn bị mọi mặt, nhất là việc kéo pháo vào trận địa. Đoạn đường kéo pháo bằng tay vào trận địa khá dài, qua những dốc cao, vực thẳm, có dốc cao đến 600m, trong lúc máy bay và pháo địch luôn cản trở. Bộ Chỉ huy điều động 2 đại đoàn làm nhiệm vụ mở đường, kéo pháo, dự kiến hoàn thành trong ba đêm. Thế mà sau 7 đêm pháo vẫn chưa vào vị trí và thời gian nổ súng phải lùi lại 5 ngày tức ngày 25/1. Trong đó, quân địch đã tăng lên 12 tiểu đoàn và một tập đoàn cứ điểm kiên cố đã hình thành.
Thế mà theo hồi ký của Đại tướng, chỉ có Đại đoàn trưởng 312 Lê Trọng Tấn phản ánh khó khăn khi phải đột phá 3 lần mới vào được trung tâm và Cục phó Cục Bảo vệ Phạm Kiệt được cử đi kiểm tra kéo pháo phía tây dám nói lên tình trạng bố trí trận địa pháo dã chiến dễ bị phản pháo, bị máy bay đánh phá và một số pháo chưa vào trận địa. Trong khí thế dâng cao của quân sĩ, hầu như không ai dám nói lên khó khăn. Do một chiến sĩ bị bắt, ngày giờ tiến công của ta bị lộ nên giờ nổ súng được lùi lại 24 giờ tức ngày 26/1.
Sau 11 ngày đêm suy tính, nhất là đêm 25/1 hầu như không chợp mắt, Đại tướng đi đến quyết định phải thay đổi cách đánh vì địch không còn lâm thời phòng ngự mà đã thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố và phía ta có nhiều khó khăn chưa được bàn tính kỹ để tìm cách khắc phục.
Sáng ngày 26/1, Đại tướng cùng đồng chí Hoàng Minh Phương gặp Trưởng đoàn Cố vấn Vi Quốc Thanh với nắm ngải cứu đắp trên chán vì đau đầu. Chỉ sau khoảng nửa giờ trao đổi, cố vấn Vi đã nhất trí với sự phân tích, đánh giá của Đại tướng và đổng ý hoãn cuộc tiến công chuyển sang phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Hồi ký của Đại tướng và của đại tá Hoàng Minh Phương đã thuật lại nội dung cụ thể của cuộc trao đổi mang tính quyết định này.
Ngay sau đó, Đảng ủy mặt trận được triệu tập để thảo luận về thay đổi phương châm tác chiến. Dĩ nhiên lúc đầu mọi người không tán thành, nhưng khi đặt vấn để phải đảm bảo “chắc thắng mới đánh” như quyết định của Bộ Chính trị là lời dặn của Bác Hồ thì mọi người mới nhận ra nhiều khó khăn chưa có biện pháp khắc phục mà thực tế 11 ngày đêm chuẩn bị chiến trường đã bộc lộ khá rõ. Trên cơ sở nhất trí, Đại tướng kết luận chuyển phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” và ra lệnh toàn mặt trận hoãn cuộc tiến công, các đơn vị lui về địa điểm tập kết và kéo pháo ra. Trận quyết chiến Điện Biên Phủ được chuẩn bị lại theo phương châm mới và đi đến thắng lợi ngày 7/5/1954, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương với 21 tiểu đoàn phòng ngự bố trí thành trung tâm đề kháng và cứ điểm có hệ thống công sự kiên cố và hỏa lực mạnh.
Trên nền tảng của chiến tranh toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh và sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, trong phạm vi chiến dịch Điện Biên Phủ thì sự thay đổi cách đánh là một nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi trận Điện Biên Phủ. Đấy là “một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và chính thách thức này càng chứng tỏ tài năng quân sự kiệt xuất về tư tưởng, nghệ thuật quân sự cũng như năng lực tổ chức, chuyển đổi nhận thức, chủ trương của cả Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch, cố vấn quân sự Trung Quốc và của vị Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, tạo nên sự nhất trí trên một phương châm tác chiến mới, bảo đảm thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ lịch sử.
Thanh Vân