Bỏ qua nội dung chính

Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Tìm kiếm
Trang chủ
Tra cứu
Tài Liệu Số
Thư viện Koha
Văn bản
Youtube
Gallery
  

Thư viện Tỉnh Đồng Nai > Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam > Bài đăng > ANH HÙNG HỒ THỊ BI
ANH HÙNG HỒ THỊ BI

 

Bà tên thật là H Thị Hoa, sinh năm 1916 trong một gia đình nghèo tại làng Tân Hiệp, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay là xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh). Ngày và tháng sinh của bà không rõ. Theo truyền thống Nam Bộ, do bà là người con thứ 4 trong gia đình và có tên thân mật là Bi, nên bà còn có tên là Năm Bi. Cha của bà mất sớm, đến năm lên 6 tuổi thì mẹ của bà cũng ngã bệnh nặng. Bà phải bắt đầu phụ giúp bán chè xôi nước để sinh kế. Năm lên 10 tuổi, bà phải đi ở đợ đ kiếm thêm tin nuôi mẹ, nuôi em.

Do hoàn cảnh gia đình, nên từ nhỏ bà đã không được học hành. Do sự cố gắng làm lụng và tiết kiệm, bà dần dành dụm một số tiền để thoát khỏi thân phận ở đợ và làm nghề bán chè ở chợ Hóc Môn. Vào tuổi trưởng thành, bà lập gia đình. Chịu ảnh hưởng từ người chồng, vốn là một thành viên tích cực của Hội Ái hữu tương tế, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản Đông Dương, bà sớm tham gia hoạt động của Hội với ý thức đơm giản là đoàn kết tương trợ, bênh vực giới nữ tiểu thương nghèo khổ bị áp bức, đấu tranh bãi thị, đòi giảm thuế chợ. Tháng 6 năm 1936, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, bấy giờ đang hoạt động công khai trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

Năm 1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương bị chính quyền thực dân đàn áp. Chồng bà cũng bị bắt do liên can đến vụ đình công ở Hóc Môn. Mặc dù vậy, bà vẫn bí mật hoạt động liên lạc cho các cán bộ Cộng sn. Năm 1941, bà tham gia Hội Phụ nữ Cứu quốc Hóc Môn. Để chuẩn bị cho Cách mạng tháng 8, bà được Quận ủy Hóc Môn giao nhiệm vụ làm Trưởng ban tiếp tế và chỉ huy đại đội nữ binh thị trấn Hóc Môn,  phó hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc. Ngày 25 tháng 8 năm 1945 bà cùng đoàn biu tình từ Hóc Môn kéo v Sài Gòn, cùng tham gia giành chính quyền tại Sài Gòn tr thành chỉ huy quân sự. 

Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, với vai trò Trưởng ban tiếp tế quận Hóc Môn, bà phụ trách tiếp tế các mặt trận Tham Lương, Bến Phân, Chợ Cầu cho Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Đim - Đức Hòa. Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp các mặt trận đều bị vỡ. Các lực lượng chống Pháp đều phải rút ra ngoại vi để hoạt động kháng chiến. Do hoàn cảnh có 3 con nhỏ và chồng đang công tác tại Ban an ninh quận, bà được khuyên trở về nhà làm ăn, nuôi con. Hai lần đề đạt ý nguyện tham gia kháng chiến nhưng đều bị từ chối, bà bị buộc phải giải ngũ trở về nhà. Không cam tâm đứng ngoài, bà nảy ra ý định thành lập đơn vị riêng. Bà tập hợp những người có cùng hoàn cảnh muốn tham gia kháng chiến nhưng bị buộc phải giải ngũ, thành lập một đội tuyên truyền vũ trang, vừa sản xuất tự túc nuôi thân, vừa đánh giặc, gọi là đội công tác xã Thới Tứ. Đây chính là tiền thân của Ban công tác Thành số 12 và Đại đội 2804. Đội công tác do bà chhuy gồm 5 "tiểu đội", có 2 nam, 2 nữ và 1 trẻ em, thu       thập một số lựu đạn, thực hiện liên tiếp các trận đánh bằng lựu đạn vào quân Pháp và các chức sắc cộng tác với chính quyền  Pháp tại chợ Hóc Môn, Nhà Việc, chùa Ông, chợ Cầu. Đặc biệt với trận đánh ngày 12 tháng 12 năm 1945, đội công tác của bà tiêu diệt được một tiểu đội lính Pháp và được Ban chỉ huy Giải phóng quân Liên quận gửi giấy khen và tặng một khẩu súng ngắn 7,65 ly.

Do những trận đánh này mà uy tín của đội công tác của bà lên cao và có ngày càng nhiều người gia nhập. Tên tuổi Năm Bi cũng bắt đầu được nhiều người biết đến. Với số vũ khí thu thập được, bà dần xây dựng thành một đội quân chiến đấu độc lập, thành lập căn cứ tại Rỗng ông Hồ (Hóc Môn). Đội công tác của bà được tư lệnh Nguyễn Bình công nhận là một đơn vị chính thức gọi là Ban Công tác Thành số 12 là đơn vị chiến đấu của bà mang phiên hiệu đại đội 2804, thuộc chi đội 12 do bà làm chỉ huy trưởng. Trong đại đội của bà còn tổ chức cả một tiểu đội gồm các hàng binh người Âu trong quân đội Pháp. Với đội quân này, bà tổ chức nhiều trận tập kích, khủng bố trong vùng quân Pháp kiểm soát,  làm ngay cả đối phương cũng phải nể phục. Bấy giờ bà chưa biết chữ, nên các bản án khủng bố do bà ký tên run tay, chữ “Bi” giống số “131” do đó quân pháp ở Hóc Môn là Madame 131 hay Capitaine 131. Năm 1948, bà được cử làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 935, Trung đoàn 312. Hai năm sau, bà được giao nhiệm xây dựng căn cứ Dương Minh Châu cùng với 30 đồng chí phần lớn là thương bệnh binh, được tổ chức thành bộ khung của Tiểu đoàn 999, có nhiệm vụ mở đường xây dựng căn cứ địa nối liền Nam Bộ với Campuchia. Tại vùng biên giới, bà đã cho tổ chức các hoạt động căn cứ và tiếp tế thành công, tạo tiền đề cho sự phát triển của căn cứ về sau trong Chiến tranh Việt Nam. Bà rất chú trọng hoạt động tuyên truyn vận động dân chúng, vì vậy được người dân Khmer vùng này kính trọng và gọi bng biệt danh Lục thum Bi. Năm 1953, bà được c tham gia đoàn công tác ra Việt Bc. Tại đây, ln đu tiên bà được gặp mặt Chủ tịch H Chí Minh va được Người đặt biệt danh Nữ kiệt min Đông. Trong dp này, bà cũng được trao tặng Huân chương kháng chiến chng Pháp hạng nhất.

Chị Năm chính sách

Chưa kip trở về Nam thì Hiệp định Genève, 1954 được ký kết, bà được phân công công tác tại bộ phận chuẩn bị đón tiếp đồng bào, chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc. Năm l956 bà được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Năm          1959 khi đang công tác tại bộ phận chính sách của Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, bà là một trong những nữ quân nhân hiếm hoi được phong quân hàm đại úy.  Năm 1960, bà được giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội tại tỉnh Hòa Bình, là tỉnh kết nghĩa với tỉnh Gia Định, quê hương của bà. Bà trúng cử 2 khóa liên tiếp tại tỉnh này. Năm 1963, bà đã trồng một cây đa để kỷ niệm tại ngã 3 xã Hùng Tiến, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Từ đó, người dân địa phương gọi ngã 3 này là Ngã 3 Hồ Thị Bi và cây đa do bà trồng là Cây đa bà Bi.

Trong 12 năm làm công tác chính sách, bà phụ trách cộng quản lý gia đình hậu phương quân đội để cán bộ, chiến sĩ ở tin phương yên tâm chiến đấu. Trong những năm Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, bà được giao nhiệm vụ sơ tán những con em liệt sĩ, những con em có cha mẹ chiến đấu ra khỏi Thủ đô Hà Nội. Năm 1965, bà được phong hàm Thiếu tá, trở thành nữ quân nhân có cấp bậc quân hàm cao nhất trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, và được giao nhiệm vụ chăm sóc đoàn đại biểu anh hùng, chiến sỹ thi đua miền Nam ra thăm miền Bắc. Cuối năm 1973, bà đề đạt nguyện vọng được trở lại miên Nam công tác. Ngày 15 tháng 12 năm 1973, bà trở lại chiến trường miền Nam, với tư cách là đặc phái viên của Cục chính sách thuộc Tổng cục Chính trị bên cạnh Bộ chỉ huy Miền, hàm Trung tá. Trong 2 năm 1974-1975, bà đã có 3 lần đi trên tuyến đường Trường Sơn để vào Nam ra Bắc. Sau năm 1975, bà được phân công phó chủ nhiệm Chính trị, Bộ Tư lệnh thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1978, bà được phong cấp bậc Thượng tá. Mặc dù ngoài 60 tuổi, bà vẫn tiếp tục được giữ lại để làm công tác chính sách cho cán bộ chiến sĩ và các cựu chiến binh cũng như gia đình của họ. Mãi đến năm 1980, bà mới được cho nghỉ hưu. Để tôn vinh, bà được Đảng, Nhà nước đặc cách phong quân hàm Đại tá và phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Sau khi nghỉ hưu, bà vẫn tiếp tục hoạt động xã hội, là một trong những sáng lập viên của Bảo tàng Phụ n Nam Bộ, là ủy viên Trung ương Hội cựu chiến binh Việi Nam. Bà qua đời lúc 20 giờ 30 ngày 12-10-2011 tại thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 95 tuổi.

Nguyễn Thái An

Hà Tiến Thăng

 

Comments

Không có nhận xét nào cho bài đăng này.