Bỏ qua nội dung chính

Ngược dòng lịch sử

Tìm kiếm
Trang chủ
Tra cứu
Tài Liệu Số
Thư viện Koha
Văn bản
Youtube
Gallery
  

Thư viện Tỉnh Đồng Nai > Bài viết 2015 > Ngược dòng lịch sử > Danh mục
Văn hóa – Con người đất Đồng Nai: Những dấu ấn lịch sử

 

 

Chào mừng kỷ niệm 325 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai (1698 – 2023)

 

Xem toàn văn

 

 

 

Kỷ niệm 195 năm Ngày sinh vị anh hùng Nguyễn Cao (1828 – 2023)

 

Nguyễn Cao tên thật là Nguyễn Thế Cao sinh năm 1828 tại làng Cách Bi (tục gọi là làng Gạch), xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc ( nay là huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh).

Cha ông là Nguyễn Hạnh, đỗ cử nhân khoa Tân Mão (1831), làm Tri huyện Thủy Đường. Thân mẫu là Nguyễn Thị Điềm, tục gọi là Bà Huyện Quế Dương, thuộc dòng họ võ quan Nguyễn Đức ở Quế Ô. Tuy nhiên, ông đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ khi còn rất nhỏ, ông sống nương nhờ vào tình yêu thương của họ nội và họ ngoại, nên vẫn được nuôi dạy hết sức chu đáo.

Ngay từ nhỏ, ông đã có trí thông minh và học giỏi hơn người. Năm 1867, Nguyễn Cao đã đậu đầu trong kỳ thi Hương Đinh Mão tại Hà Nội.

Quý mến tài học của Nguyễn Cao, Phạm Thận Duật đã tặng ông hai câu thơ: (dịch)

Khoa Đinh Mão tên đề số một

Người Quế Dương tài vượt tám ngàn.

Dù đậu cao, nhưng ông không ra làm quan mà trở về quê hương mở trường dạy học. Khi giặc Pháp tiến quân đánh Bắc kỳ lần thứ nhất, năm 1873, Nguyễn Cao mộ được đông đảo nghĩa quân đánh Pháp ở Gia Lâm, Thuận Thành. Vì ông từng giữ chức Tán lí quân vụ chống Pháp, nên thường gọi là Tán Cao.Nhưng qua năm sau, triều đình Huế thỏa hiệp, ký hiệp ước năm 1874, ông buộc phải giải tán nghĩa quân. Sau đó, nhân việc ông có công lao trong việc đánh dẹp Thanh phỉ, triều đình ép ông giữ chức tri huyện Yên Dũng, rồi thăng tri phủ Lạng Giang. Ông làm quan rất thanh liêm, hết lòng lo lắng đến đời sống dân chúng, trong lời tâu về triều đình, quan tỉnh xác nhận: “Trộm khiếp sợ Nguyễn Cao như thần, dân chúng thân thiết như cha”. Nguyễn Cao làm quan rất thanh liêm, lại có công trong việc khai hoang lập ấp ở Nhã Nam, Phú Bình, nên được thăng chức Án sát Nam Định, rồi Bố chánh Thái Nguyên.

Thực dân pháp đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ hai năm 1882, ông lại đem nghĩa quân ra nghênh chiến. Đội quân của ông phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy trấn giữ miền Đông Bắc, đã tiến về đánh nhiều trận ở xung quanh Hà Nội và lập được nhiều chiến công.

Ngày 18/5/1883, ông bị thương nặng trong một trận đánh ở Gia Lâm. Sau khi lành vết thương, ông được cử giữ chức Tán tương quân vụ Bắc kỳ (nhân dân thường gọi là ông Tán Cách Bi). Sau đó, Bắc Ninh, Nhã Nam thất thủ, Nguyễn Cao lánh về Kim Giang (nay thuộc huyện Ứng Hoà – Hà Tây) dạy học.

Năm 1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương đánh Pháp, ông lại mộ quân phối hợp với Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy, Tạ Hiện lập “Đại nghĩa đoàn” lãnh đạo chống Pháp ở ba tỉnh: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Trước sức mạnh của quân xâm lược, nghĩa quân kháng chiến dần dần thất thế.

Ngày 27/3/1887, Nguyễn Cao bị giặc bắt tại làng Kim Giang. Chúng đưa về Hà Nội giam giữ và dùng cực hình tàn bạo. Những đòn khảo tra không làm lung lay ý chí của ông, chúng diễn màn dụ dỗ, mua chuộc, nhưng Nguyễn Cao kiên quyết cự tuyệt. Ông đã dùng những lời lẽ đanh thép để vạch trần dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và hành động bán nước của bọn tay sai, sau đó ông tuẫn tiết trong ngục tù… Không dụ hàng được ông, chúng đã xử chém ông ở pháp trường Vườn Dừa, nay là Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục bên bờ hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội vào chiều ngày 14/4/1887.

Trước lúc ra đi, Nguyễn Cao đã để lại bài thơ Tự phận ca (Bài ca biết phận) bộc lộ tâm trạng bị phẫn của một tầng lớp nho sĩ trước thời vận mất nước. Trích một đoạn (Lê Xuân Giáo dịch):

Ngán thay tạo vật, cho ta sống làm gì?

Đã không đi được ngàn dặm như ngựa ký

Lại không bay được lưng trời như chim le

Đã không bằng chim cắt một vút tầng mây xanh thẳm

Lại không bằng con báo từng giấu mình trong sắc rằn ri

Ngán thay tạo vật cho ta sống làm gì?

Phải chung sống ở trần cùng với loài dê, chó

Không bằng để ta chết cho non sông mà làm ngọc anh quỳnh chi

Phải chung sống, khác nào u bướu nung núc hành thân khổ

Không bằng chết, mà cùng trời đất bát ngát nhẹ hồn mê…

Cái chết oanh liệt của ông đã kích động sâu xa đến lòng yêu nước của sĩ phu thời bấy giờ. Nhiều người đã làm thơ thương tiếc ông. Danh tướng Tôn Thất Thuyết có bài thơ của khóc ông như sau:

Trước đây mười năm đã từng biết

Trọn đời hẹn mình cho khí tiết

Theo tôi đánh giặc, vùng Bắc Giang

Nổi tiếng can đảm hơn đồng liệt.

Quyết lòng vì nước lập kỳ công,

Khá tiếc năm nay ông vội chết.

Như ông xem chết nhẹ như chơi,

Chí khí kịp theo các tiên triết.

Gân đây chết nghĩa biết bao người,

Tiếng ông Cách Bi trội hơn hết.

Hồn thiêng nên gắng giúp non sông,

Muôn thuở Đức Giang thơm sạch tuyệt.

(Trần Huy Liệu dịch)

Khí tiết lẫm liệt của Nguyễn Cao đã được lưu truyền cho đến ngày nay.

Sau khi Nguyễn Cao mất, dân làng Cách Bi lập đền thờ phụng để tôn vinh, tưởng niệm danh nhân của quê hương – nhà khoa bảng, nhà yêu nước lỗi lạc của quê hương. Đền thờ Nguyễn Cao tọa lạc tại thôn Cách Bi, xã Cách Bi, huyện Quế Võ vốn được khởi dựng từ thời Nguyễn với quy mô nhỏ, ban đầu chỉ là một miếu thờ. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, đền bị phá hủy. Năm 1992, đền được phục dựng lại và tồn tại đến ngày nay.

Sinh thời, Nguyễn Cao làm thơ để tỏ chí. Những tác phẩm hiện còn lưu truyền  như: “Khấp Ái Bộc” (Khóc chú giúp việc thân yêu), “Văn Hà Nội chế đài Hoàng Diệu ai tín” (Nghe tin Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu mất), “Trách dụ xuất thú” (Trách kẻ dụ ra đầu thú), “Tự phận ca”.

Nhiều địa phương (mà trước kia ông từng khai lập làng xóm, đóng quân) đã lập đền thờ hoặc thờ ông là Thành hoàng. Tên ông được đặt cho một trong những đường phố lớn của thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Bắc Ninh. Nhiều trường học cũng đã mang tên ông.

Nhân kỷ niệm 195 năm Ngày sinh Nguyễn Cao (1828 – 2023), xin được bày tỏ lòng tấm lòng ngưỡng vọng và tri ân của thế hệ hậu sinh đối với một vị quan thanh liêm, yêu nước, thương dân; một danh tướng nhà Nguyễn khí tiết, kiên trung và đồng thời là một nhà thơ Việt Nam tài năng, chí lớn ở thế kỷ 19. Tấm gương oai phong lẫm liệt của ông mãi được thế hệ hôm nay tôn kính và truyền tụng cho đến mai sau.

Tài liệu tham khảo:

1.      Danh nhân cách mạng Việt Nam /  Lê Minh Quốc. - Thành phố Hồ Chí Minh : Nxb. Trẻ. - 21 cm. - (Kể chuyện danh nhân Việt Nam). - T.6. -  2009. -  243 tr. : ảnh.

2.      Nhân vật chí Việt Nam / GS. Vũ Ngọc Khánh (ch.b.), Bích Ngọc, Minh Thảo. - H. : Văn hóa Thông tin , 2009. - 583 tr. ; 24 cm.

 

Nguyễn Mai

 

 

 

 

 

 

Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ, nhạc sĩ Văn Cao (15/11/1923 – 15/11/2023)

Văn Cao được biết đến là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ yêu nước. Ông là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam trong thế kỷ XX (cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn). Ông là tác giả của ca khúc Tiến quân ca - quốc ca chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời ông cũng là một trong những nhạc sĩ có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam.

Nhà thơ, nhạc sĩ Văn Cao, tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923 tại Hải Phòng, quê quán ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, Văn Cao học ở trường tiểu học Bonnal (nay là Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng), sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938 (khi mới 15 tuổi), vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung.

Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là “Buồn tàn thu” vào năm 16 tuổi, được Phạm Duy đem đi hát khắp nơi. Từ đó bắt đầu sự gắn bó hoạt động văn nghệ của Văn Cao – Phạm Duy. Bên cạnh đó, Văn Cao còn sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như “Gió núi”, “Gò Đống Đa”, “Anh em khá cầm tay”.

Năm 1942, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant - nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền và theo học dự thính tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy. Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique (Phòng tranh duy nhất) tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu gây được tiếng vang trong giới hội hoạ: “Những kẻ tự sát”, “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, “Nửa đêm”… Văn Cao tự học về âm nhạc và sớm trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng. Giai đoạn 1940-1943 là thời kỳ viết nhạc sung mãn nhất của Văn Cao với các ca khúc lịch sử và ca khúc trữ tình lãng mạn, như:  Bến xuân (1942 - sau này sửa lời thành Đàn Chim Việt), Suối mơ (1943), Thiên thai (1941), Trương Chi (1943). Ông nhanh chóng trở thành một trong những gương mặt tiên phong, nổi bật nhất của trào lưu lãng mạn trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đặc biệt là để lại những dấu ấn mang tính khai phá của ông trong tân nhạc Việt Nam.

Được giác ngộ cách mạng, ông tham gia công tác trong Hội Văn hoá Cứu quốc và Đội danh dự trừ gian Hà Nội. Chính tay ông đã diệt một tên Việt gian khét tiếng gian ác. Nhạc sĩ Văn Cao đã hoạt động hăng say cho cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, bên cạnh thế giới nhạc lãng mạn là những bài hát yêu nước tràn đầy khí phách: Bạch Đằng giang, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc. Năm 1944, bài hát “Tiến quân ca” được viết cho Khoá quân chính kháng Nhật, theo yêu cầu của Vũ Quý – một cán bộ lãnh đạo Việt Minh. Tháng 11/1944, bài hát “Tiến quân ca” được Văn Cao khắc in trên báo Lao động số 1. Ngày 19/8/1945, “Tiến quân ca” được Văn Cao điều khiển dàn đồng ca Thiếu niên Tiền phong hát tại Quảng trường Nhà hát lớn trong cuộc mít tinh giành chính quyền của Việt Minh tổ chức. Cũng vào năm 1945, ông sáng tác bài “Chiếc xe xác qua đường Dạ Lạc” và các ca khúc “Chiến sĩ Việt Nam”, “”Chiến sĩ Hải quân”, “Chiến sĩ Không quân”... Năm 1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại kỳ họp thứ nhất đã quyết định lấy “Tiến quân ca” của Văn Cao làm quốc ca cho người Việt Nam.

Sau ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp (19/12/1946), ông tham gia những công tác đặc biệt của Bộ Nội vụ, rồi về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Bắc. Trong thời kỳ này, ông tiếp tục sáng tác những bài hát nổi tiếng như: Trường ca Sông Lô (1947), Tiến về Hà Nội… Ông được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam (1948). Năm 1952, ông được cử đi Liên Xô trong phái đoàn của Trần Huy Liệu.

Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên thường vụ Hội nhạc sĩ Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều tuyển tập nhạc rất được bạn yêu nhạc ưa thích và được giới thiệu ở nước ngoài. Không chỉ là một nhạc sĩ tài hoa, Văn Cao còn là nhà thơ và là hoạ sĩ, bên cạnh đó ông còn nổi tiếng về những hoạ phẩm minh hoạ với một phong cách riêng.

Năm 1956, ông tham gia Nhân văn và Giai phẩm với bài thơ “Anh có nghe không” đăng trên Giai phẩm mùa xuân và trích đoạn trường ca Những người trên cửa biển” in trên báo Nhân văn số 4. Những năm sau đó, ông bị kỷ luật, đi thực tế lên Điện Biên cùng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Các bài hát trước đây không được biểu diễn. Cho đến cuối thập niên 1980, nhờ chính sách đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, các tác phẩm của Văn Cao cùng những ca khúc tiền chiến khác được biểu diễn trở lại.

Có thể nói, Văn Cao hoạt động trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật. Ngoài sáng tác văn học, ông còn là một nhạc sĩ, hoạ sĩ tài năng. Trước cách mạng, Văn cao đã nổi tiếng là nhạc sĩ tài danh. Ông là tác giả của nhiều ca khúc trữ tình nổi tiếng và những hành khúc yêu nước (trong đó, nổi tiếng nhất là ca khúc Tiến quân ca). Thơ Văn Cao luôn có sự tìm tòi mới mẻ về nội dung và hình thức. Theo nhận định của giới nghiên cứu văn học, thơ của ông thường đưa vào một nghệ thuật cấu tứ vững chắc, đột phá qua những hình tượng bất ngờ, độc đáo. Ngôn ngữ được chọn lọc kỹ, tiết tấu nhanh, câu thơ hàm súc đầy ắp thông tin... Với tài năng nhiều mặt và những đóng góp to lớn của mình, Văn Cao có một vị trí đặc biệt trong nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông từng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội nhạc sĩ Việt Nam, Phó Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Ủy viên BCH Hội nhạc sĩ Việt Nam (khoá I và III).

Văn Cao qua đời vào ngày 10/7/1995. Với những đóng góp to lớn của mình cho nền văn học nước nhà, năm 1996, Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I năm 1996). Ông cũng đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huân chương Độc lập hạng Ba (1968); Huân chương Độc lập hạng Nhất (1993). Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế…

Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ, nhạc sĩ Văn Cao (1923-2023), Thư viện tỉnh Đồng Nai xin được giới thiệu sơ lược tiểu sử của ông nhằm khẳng định một tài năng của Việt Nam hội tụ trên các lĩnh vực nhạc sĩ, hoạ sĩ và nhà thơ. Đồng thời, khẳng định những đóng góp to lớn cho nền văn học nghệ thuật nước nhà những tác phẩm thi, hoạ và cả những khúc ca còn vang mãi. Thế hệ hôm nay sẽ luôn tưởng nhớ đến ông, một nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ lớn của dân tộc Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

1. Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam : Dùng trong nhà trường / B.s.: Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Như Ý (ch.b.)... - H. : Giáo dục, 2012. - 1807tr. : ảnh ; 24cm.

2. Mười khuôn mặt văn nghệ : Lãng Nhân. Nguyễn Tuân. Vũ Bằng. Vũ Hoàng Chương. Nguyễn Bính. Đinh Hùng. Văn Cao. Sơn Nam. Nguyễn Sa. Trịnh Công Sơn / Tạ Tủ. - H. : Nxb. Hội nhà văn, 1996. - 373tr ; 19cm.

3. Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX / Ngô Văn Phú, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách b.s. - H. : Nxb. Hội Nhà văn. - 19cm T.4 / Lại Nguyên Ân, Văn Cao, Nông Quốc Chấn.. . - 1999. - 798tr.

 

Nguyễn Mai

 

 

 

 

 

Kỷ niệm 100 năm ngày mất của lãnh tướng Trần Xuân Soạn

Trần Xuân Soạn là vị tướng tài dưới thời nhà Nguyễn. Ông là một trong những người đi đầu trong phong trào chống Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Nổi bật nhất là ông cùng với tướng quân Tôn Thất Thuyết đánh Pháp đóng ở đồn Mang Cá trong trận Kinh thành Huế vào đầu tháng 4 năm 1885. Sau thất bại, ông lãnh nhiệm vụ tổ chức phong trào Cần vương kháng Pháp ở Thanh Hóa. Cuộc đời cầm binh của ông tuy chưa dẹp được quân thù xâm lược, song cũng là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất, đại diện cho mong cầu về đất nước hòa bình, nhân dân yên vui, hạnh phúc.

Trần Xuân Soạn sinh năm Kỷ Dậu (1849) tại xã Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, trong một gia đình nông dân nghèo. Đến tuổi trưởng thành, do có sức khỏe, nhanh nhẹn và ưa võ nghệ, ông đi tòng quân thay cho con một nhà phú hào trong làng để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Trong quân ngũ, vì có sức khỏe và mưu trí dũng cảm, ông đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Năm 1873 (có tài liệu viết năm 1874) dưới triều Vua Tự Đức, nhà Thanh cùng bọn thổ phỉ liên kết với nhau quấy phá vùng đất phía Bắc của nước ta. Vua Nguyễn phái quan đại thần Tôn Thất Thuyết ra Bắc dẹp loạn. Trong trận chiến với giặc, vị tướng chỉ huy cánh quân có Trần Xuân Soạn tham gia chiến đấu chẳng may tử trận khiến quân lính hoảng sợ. Trần Xuân Soạn đã tập hợp quân lính tiếp tục đánh trận, chuyển thế trận từ bại thành thắng. Khi bình quân, quan đại thần Tôn Thất Thuyết không tiếc lời khen ngợi, đồng thời thăng chức cho ông làm Lãnh binh.

Theo sách Văn tài võ lược xứ Thanh có ghi lại: “Cuối năm Quý Dậu (1873) khi quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Nam Định, Tôn Thất Thuyết đã đề cử lên triều đình điều Trần Xuân Soạn từ Tuyên Quang về Nam Định giữ chức Đề đốc. Khoảng năm 1882, Trần Xuân Soạn được triều đình điều về Huế giữ chức Vệ úy lãnh kinh thành Phó Đề đốc, không lâu sau thăng lên Vũ Lâm Đề đốc (giữ kinh thành và bảo vệ vua). Đầu năm 1884 được thăng Chưởng vệ”. Nhờ có sức khỏe, võ nghệ hơn người, ý chí kiên cường, mưu lược nên Trần Xuân Soạn được vua, quan tin dùng.

Khi Trần Xuân Soạn được điều về Bộ Binh tại kinh thành Huế cũng là lúc triều đình nhà Nguyễn xảy ra nhiều biến động. Trước việc thực dân Pháp xâm lược, triều đình chia thành hai phe chủ chiến và chủ hòa. Đặc biệt là sau khi vua Tự Đức qua đời, mâu thuẫn giữa hai phe càng gay gắt. Là người đứng đầu phe chủ chiến, quan đại thần Tôn Thất Thuyết đã tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến kháng Pháp lâu dài. Tôn Thất Thuyết cho lập ra Phấn nghĩa quân”, giao cho những người thân thuộc tin cn tham dự vào việc hiểu dụ những thân hào, sĩ dân có tinh thn chiến đu chống Pháp để tuyển dụng vào lính, chia thành vệ đội cho luyện tập cẩn thận để khi cn thì dùng đến. Tôn Thất Thuyết đã tin tưởng giao đội quân này cho Trần Xuân Soạn chỉ huy.

Đêm ngày 22 tháng 5 năm Ất Hợi (tức ngày 4/7/1885), lợi dụng lúc thực dân Pháp chủ quan sơ hở, đang say sưa yến tiệc trong Tòa Khâm sứ bên bờ sông Hương. Tôn Thất Thuyết chỉ đạo chia đội quân Phấn nghĩa làm hai cánh quân: Một cánh quân sai em là Tôn Thất Lệ cai quản, nửa đêm sang sông Hương hợp cùng quân đánh úp Tòa Khâm sứ của Pháp. Còn một cánh quân do Tôn Thất Thuyết cùng Phấn nghĩa Chưởng vệ Trần Xuân Soạn đánh úp vào đồn Mang Cá, trấn Bình Đài (Thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế). Đây là nơi tập trung phần lớn binh lực của quân đội Pháp. Trận chiến đã diễn ra vô cùng quyết liệt, vào khoảng canh tư (ngày 23) quân ta bắt đầu nổ súng ở trấn Bình Đài, tiếng súng vang động. Quân Pháp đóng chặt cửa, lẻn nấp đợi sáng. Tới lúc sáng rõ, quân Pháp tập trung lực lượng và hỏa lực chống trả. Chúng dùng pháo lớn bắn liền mấy giờ, quân Phấn nghĩa bị thương và chết khá nhiều, các cung điện, nhà cửa trong Hoàng thành và cung thành nhiều nơi bị đạn pháo của giặc. Hai đạo quân ở trong và ngoài của ta bị tan vỡ cả. Trong thành rối loạn, Tôn Thất Thuyết kèm xa giá (vua và hoàng cung) ra Sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị), rồi theo đường rừng Trường Sơn chạy ra Sơn phòng Phú Gia (Hà Tĩnh). Cùng theo xa giá có Thự Hiệp biện Đại học sĩ Phạm Thận Duật, Thự Tham tri Trương Văn Đễ và Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Lệ,...

Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu và nhân dân trong cả nước đứng lên đánh Pháp. Trong khi đó tại Kinh thành Huế, thực dân Pháp ép triều thần lập vua Đồng Khánh lên ngôi và hạ lệnh cho triệu các ông Tôn Thất ThuyếtTrần Xuân Soạn đưa vua Hàm Nghi trở về, triều đình Huế đã ra lệnh đày Tôn Thất Đính (là cha của Tôn Thất Thuyết, đã 70 tuổi) ra đảo Côn Lôn, tịch thu gia sản của  Hồ Văn Hiển và Trần Xuân Soạn. Treo giải thưởng cho ai bắt sống được Tôn Tht Thuyết s thưởng 1.000 lạng bạc, chém đầu được Tôn Thất Thuyết sẽ thưởng 800 lạng; bắt sống được Trần Xuân Soạn thưởng 600 lạng bạc, chém đầu được thì thưởng 300 lạng bạc. Qua đó, có thể thấy vai trò của Trần Xuân Soạn trong phái chủ chiến và phong trào Cần Vương rất lớn.

Từ Sơn phòng Quảng Trị, Trần Xuân Soạn cùng Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Hà Tĩnh. Sau đó, Ông quay về Thanh Hóa để chỉ đạo cuộc kháng chiến ở ngay chính trên quê hương Thanh Hóa. Ông cũng tích cực hoạt động ở nhiều vùng, liên lạc với nghĩa quân ở các nơi để dấy lên phong trào vũ trang chống Pháp sâu rộng trong cả nước.

Khi ông tham gia kháng chiến ở Thanh Hóa, quân giặc đã đào lấy hài cốt thân phụ ông xếp giữa đường rồi dùng củi thiêu hủy, hòng lung lạc tinh thần và để chiêu dụ ông. Nhưng ông vẫn không chịu khuất phục. Em trai ông là Trần Xuân Huấn cũng tham gia kháng chiến và bị hy sinh. Người con trai thứ hai của ông là Trần Xuân Kháng cũng hy sinh vì nước. Có thể nói, Trần Xuân Soạn và cả gia đình ông đã một lòng hy sinh, bảo vệ hòa bình của quê hương, đất nước trong những ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược.

Do sự đàn áp của thực dân Pháp, phong trào Cần Vương tại Thanh Hóa dần lắng xuống sau khi các thủ lĩnh: Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước… bị kẻ thù bắt và xử tử.  Trần Xuân Soạn phải đi sang Trung Quốc tìm gặp Tôn Thất Thuyết ở Long Châu nhằm tổ chức các toán quân kéo v hoạt động đánh Pháp ở biên giới. Trong sách Đại Nam thực lục của triều Nguyễn, tập 38, trang 126, chép: “Tỉnh Lạng Sơn, năm Mậu Tý (1888), tấu báo: Lê Thuyết và Trần Xuân Soạn lẻn đến một dải Liên Thành, Bằng Tường nước Thanh nhập bọn cùng với Lương Tuân Tú và Hoàng Văn Tường làm thuộc khách của tỉnh ấy, cùng nhau tụ họp. Rồi báo lại: Lê Thuyết và Trần Xuân Soạn ở nước Trung Hoa, giả làm quan nước Thanh, chiêu mộ binh dũng,…”

Ở Long Châu, được sự giúp đỡ của một số sĩ phu Hoa Nam, ông đã tổ chức được mấy toán quân và nhiều lần về hoạt động ở biên giới. Tuy nhiên, sau Hiệp ước Thiên Tân, quân Pháp đã chiếm đóng các tỉnh dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc và tăng cường tuần phòng kiểm soát nên lực lượng chiến đấu của Trần Xuân Soạn với vũ khí thô sơ, không thể chống lại kẻ thù xâm lược đang giày xéo nước ta.

Sống trong cảnh xa nhà, xa đất nước để mưu có ngày đem quân trở về phục vụ quốc gia, nhưng chưa thực hiện được mà thời gian thì trôi nhanh vùn vụt, Trần Xuân Soạn đã viết bài Thuật hoài để nói lên nỗi lòng của mình:

“Rời xa nhà nước trót sai kỳ,

Nam Bắc hai phen cây cỏ ghi.

Đổi họ dám đâu rằng dối trá,

Náu mình tạm để lánh hiềm nghi.

Vợ hiền chớ trách chồng đen bạc,

Con hiếu đừng chê bố lỗi nghì.

Trút sạch nhớ thương dòng biển cả,

Trước sau lưu lạc một tâm tư.”

(Nguyễn Khắc Hoan dịch)

Theo thông tin ghi trong gia phả, Trần Xuân Soạn mất ngày 10 tháng 11 năm 1923, tại Long Châu, thọ 74 tuổi. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của Lãnh tướng Trần Xuân Soạn (1923 - 2023), Thư viện tỉnh Đồng Nai xin giới thiệu sơ lược về tiểu sử, sự nghiệp, tài năng và khí phách của vị lãnh tướng trong thời kỳ đầu chống thực dân Pháp xâm lược. Qua đó, hun đúc tình yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ, là động lực để bạn trẻ cố gắng học tập, phát huy tính tự lực, tự cường trong lao động và sản xuất, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phát triển hùng cường./.

 

Đào Thanh

 

 

 

 

 

Kỷ niệm 210 năm ngày sinh của Đệ tam giáp Tiến sĩ Doãn Khuê

Đệ tam giáp Tiến sĩ Doãn Khuê xuất thân khoa bảng, là một văn quan đỗ đạt cao, tinh thông Nho học và còn nhiễm cả chút Lão Trang. Làm quan giữa thời buổi đất nước gặp họa ngoại xâm, triều đình thì bạc nhược hèn yếu, ông phải ra tay làm những công việc của một nhà binh. Ông là một trong những vị quan đầu có tư tưởng đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược; chống giặc phỉ ở biên cương; mộ dân, di dân hoang hóa mở rộng vùng biển Nam Định. Những việc làm và lời bàn của ông đã chứng tỏ ông là vị tướng quân đức độ, tài cao. Không chỉ là một quan văn, quan võ, ông còn là một người thầy tâm huyết, truyền dạy những tri thức cho bao thế hệ học trò của mình. Nhiều người sau này trở thành nhân tài, phụng sự Tổ quốc. Nhân kỷ niệm 210 ngày sinh của Đệ tam giáp Tiến sĩ Doãn Khuê (1813 - 2023), và kỷ niệm 145 năm ngày mất của ông (1878 - 2023), Thư viện tỉnh Đồng Nai xin giới thiệu sơ lược về tiểu sử, sự nghiệp của ông đến đông đảo người dân trong và ngoài tỉnh. Giúp bạn đọc có thêm kiến thức về lịch sử trong những năm đầu kháng Pháp và hiểu hơn về cuộc đời của quân thần trung kiên - Doãn Khuê.

Doãn Khuê tên tự là Bảo Quang, sinh ngày 15 tháng 10 năm Quý Dậu (1813) tại làng Ngoại Lãng (nay là xã Song Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Cha của Doãn Khuê nổi tiếng là người hay chữ nhưng không tham gia thi cử.

Khi lên 9 tuổi, Doãn Khuê được cha dạy bảo chu đáo. Song vì cảnh nhà nghèo túng nên cha phải gửi ông sang nhà bác họ (cụ Tú Cả) để vừa chăn trâu vừa tiếp tục được học. Khi Doãn Khuê mới 11-12 tuổi đang theo học cụ Tú Cả và có nhiều triển vọng thì cha mẹ lần lượt qua đời. Cụ Tú Cả thương cháu càng quyết tâm cho Khuê học tập. Doãn Khuê được cử sang học cụ Phạm Diệu (thân phụ của Tiến sĩ Phạm Thế Hiển) ở Luyến Khuyết (xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

 Năm Đinh Dậu (1837), khi vừa tròn 25 tuổi, Doãn Khuê dự thi và đỗ Cử nhân. Năm sau – Mậu Tuất (1838) ông vào dự thi Hội và đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ cùng khoa bảng với Hoàng giáp Phạm Văn Nghị.

Sau khi thi đỗ, ông được vào làm việc ở Viện Hàn lâm (1839), rồi thăng lên làm Tri phủ Ứng Hòa, ở Hà Đông, Hà Nội. Năm đầu thời Thiệu Trị (1841) ông được bổ nhiệm làm ở Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Giám sát Ngự sử đạo Lạng - Bình (Lạng Sơn - Cao Bằng). Cuối năm 1842, ông lại được điều ra nhận chức Giáo thụ Xuân Trường, một phủ ở tỉnh Nam Định. Đảm nhận chức Giáo thụ được 5 năm thì ông cáo quan về nhà dạy học năm 1847.

Mười năm ở nhà dạy học cũng là 10 năm ông ở ẩn gạt bỏ mọi danh vọng, bổng lộc quan tước để sống với cuộc sống thanh bạch của một nhà giáo. Nghe tin Doãn Khuê mở lớp dạy học ở quê hương thì học trò sĩ tử các nơi theo về học rất đông. Nhà học của Doãn Khuê thực sự là nơi đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.

Khi giặc Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lăng nước ta, Doãn Khuê là người có thái độ dứt khoát chủ chiến. Ở Nam Định, khi Phạm Văn Nghị đứng ra chiêu tập nghĩa sĩ kéo vào Đà Nẵng đánh Pháp đã đề cử Doãn Khuê - Người bạn đồng khoa, đồng chí với mình làm Đốc học Nam Định. Doãn Khuê vui vẻ đảm nhận thay bạn.

Năm Canh Thân (1860), Doãn Khuê đứng ra chiêu tập các viên giáo, huấn, tri phủ, tri huyện trong vùng cùng nhau ký vào bản mật tấu gửi vào triều đình kiên quyết phản đối việc nghị hòa. Các ông khẳng “nghị hòa là hỏng”. Doãn Khuê đi nhiều nơi tổ chức các lớp học ở các phủ huyện, kêu gọi thành lập các đội, đoàn luyện tập võ nghệ sẵn sàng tiếp ứng cho quân đội của Phạm Văn Nghị.

Đầu năm 1861, Doãn Khuê được bổ nhiệm chức Đốc học Sơn Tây. Đến Sơn Tây lúc đó, bọn thổ phỉ nổi lên quấy rối dữ dội, nhiều toán quân phỉ từ đất nhà Thanh tràn qua cướp bóc, giết hại nhân dân. Trước tình hình đó, Doãn Khuê xin chiêu mộ người tài mạnh khỏe rồi ủy cho con trai ông là Doãn Chi trông coi, theo đi đánh giặc phỉ. Năm ấy, Doãn Khuê cùng với Hiệp quản Hưng hóa là Nguyễn Văn Thành hợp quân, đánh thắng giặc Cờ Đen, lấy lại được huyện Thanh Ba, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Phú Thọ), tiến lên lấy lại được các châu Yên Lập và Văn Chấn (nay thuộc Yên Bái), bắt được tên tướng giặc Cờ Đen đem đi giết. Doãn Khuê còn đánh lấy lại được phủ Lâm Thao (nay thuộc Phú Thọ). Sau những thắng lợi này, Doãn Khuê lại trở về với chức vụ của mình là Đốc học Sơn Tây.

Năm 1867, Doãn Khuê được triều đình cử làm Thương biện Hải phòng sứ, chuyên trông coi mạn biển Nam Định. Để tăng cường việc phòng thủ, ông đã đi xuống thực địa xem xét các cửa sông từ Ninh Bình đến Hải Dương, kiểm tra các đồn trại, cảng bến, xem xét việc bố phòng của các đề đốc, lãnh binh...

Lúc đó, có ông Nguyễn Huy Tề, người vừa được triều đình cử đi công cán ở Hương Cảng (Hồng Kông) trở về. Ông này xin triều đình cho mở phố thông thương ở cửa biển Trà Lý. Dưới con mắt thực tiễn, Doãn Khuê đã làm tập tấu gửi về triều đình phản bác ý kiến trên. Ông cho rằng không thể mở cảng ở cửa biển Trà Lý được vì điều kiện phù sa bồi đắp hàng năm rất lớn, thủy triều không thuận lợi cho tàu thuyền lớn ra vào. Kèm theo ông còn đưa ra những đề nghị như: Chọn cẩn thận quân đội có lực lượng tinh khỏe phòng khi dùng đến; Các tỉnh ven biển phải phòng bị nghiêm cẩn, chuẩn bị thuyền bè, sửa sang binh khí để tiếp viện; Hiểu thị rõ điều cấm để ngăn cản tà đạo gian dối; Thu phục nhân tâm, giúp đỡ điền hái, thu dụng thổ dân 6 tỉnh Nam Kỳ. Đặt lại chức Thổ Ty ở ven biên giới Bắc Kỳ,… Nhưng đề nghị của ông không được triều đình chấp thuận.

Trong lúc cha con Doãn Khuê đang tập trung vào công việc khai hoang thì ở Nam Kỳ cả 6 tỉnh đã bị rơi vào tay thực dân Pháp. Doãn Khuê một mặt cùng các sĩ phu phản đối triều đình ký hòa ước, mặt khác ông cũng nhận mệnh triều đình trở lại chức Thương biện Hải phòng kiêm Doanh điền sứ cùng với Phạm Văn Nghị, Nguyễn Mậu Kiến tổ chức lực lượng kháng chiến chống Pháp ở Nam Định. Cùng với đội quân của Phạm Văn Nghị, Doãn Khuê cũng đang chuẩn bị kế hoạch đánh lấy lại tỉnh thành Nam Định thì triều đình ra lệnh bãi binh thực hiện hòa ước: Pháp trả lại 4 tỉnh Bắc Kỳ, còn triều đình Huế phải trao 6 tỉnh Nam Kỳ cho chúng (năm Giáp Tuất 1874).

Sau lần phải thực hiện lệnh triều đình, phải bãi binh và chịu án để mất thành Nam Định, Doãn Khuê cùng Phạm Văn Nghị, Đỗ Phát nhất loạt xin từ quan về dạy học. Những năm cuối đời Doãn Khuê dồn hết tâm lực vào công việc dạy học, đào tạo và truyền thụ lòng yêu nước, chí căm thù giặc cho thế hệ tiếp theo gánh vác nhiệm vụ giải phóng đất nước.

Cuối năm Giáp Tuất (1874), vua Tự Đức trong lời bình hiểu thị các quan lại và sĩ dân ở Bắc Kỳ đã thừa nhận phẩm chất và tiết tháo của Doãn Khuê và các nho sĩ khác: “Phạm Văn Nghị, Doãn Khuê, Đỗ Phát các người ấy cũng là nhà nho lão luyện, là vị hưu quan, thế mà biết vì nước dạy bảo dân, không đến nỗi để lo cho triều đình,…” (Trích trong Đại nam liệt truyện chính biên, tập 3, tr. 132). Vua cũng dụ Bộ Lễ rằng: “Doãn Khuê và Phạm Văn Nghị về học hành được sĩ phu ở Nam Định kính trọng bắt chước, thực vì nước, nên chính được phong hóa và ràng buộc được lòng người…” (Theo Đại nam liệt truyện chính biên, tập 4, tr. 189).

Sau một thời gian lâm bệnh, ông mất vào ngày 15 tháng 10 năm Mậu Dần (1878) ở quê hương Nam Định, trong niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân, học trò, bạn bè và gia đình. Ông mất đi nhưng tinh thần yêu nước, thương dân, tấm lòng cao cả, học thức uyên thâm của ông vẫn được truyền dạy trong nhiều thế hệ. Tiếp nối truyền thống tốt đẹp của cha, các con của ông đều nặng lòng yêu nước, tham gia đánh giặc gìn giữ hòa bình cho vùng biên cương. Trong số đó, có Doãn Chí làm đến chức Tán tương quân vụ rồi bị hi sinh trong trận đánh với giặc phỉ ở Lạng Sơn. Mộ của Doãn Chí được thờ ở đền Trung Nghĩa.

Sáu mươi lăm tuổi đời, bốn chục năm làm quan, trải qua gần trọn bốn đời vua đầu triều nhà Nguyễn, Đệ tam giáp Tiến sĩ Doãn Khuê đã dồn hết tâm nguyện cho việc canh tân đất nước. Nhưng hoạn lộ của ông cũng lắm chông gai, với một lòng yêu nước, thương dân, tính tình ngay thẳng, ông đã mấy lần bị cách lưu, giáng chức, có lúc phải từ quan, trước thực tế quan trường ức hiếp dân chúng, còn Triều đình thì làm ngơ, tự mình thấy có trách nhiệm nhưng bất lực. Cuối cùng dưới thời Tự Đức, ông cũng đã ban phong thẻ bài Quý tự Hiếu Nghĩa.

Cuộc đời và sự nghiệp của Doãn Khuê là tấm gương sáng cho đời sau về tinh thần yêu nước, thương dân, chăm lo cho tiền đồ dân tộc. Cả cuộc đời ông chuyên lo hành xử với việc đánh Pháp, đào tạo nhân tài, mộ dân, di dân hoang hóa vùng biển Nam Định, thau chua rửa mặn, cải tạo đồng đất ven biển. Kỷ niệm 210 ngày sinh và 145 năm ngày mất của Đệ tam giáp Tiến sĩ Doãn Khuê là dịp để thế hệ trẻ tỏ lòng ngưỡng vọng, đời đời ghi nhớ công lao, đức độ của ông với quê hương, đất nước. Từ đó phát huy tính tự lực, tự cường trong học tập và lao động, góp phần xây dựng Tổ quốc Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp./.

 

Đào Thanh

 

 

 

 

 

Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Lương Khánh Thiện (13/10/1903 - 13/10/2023)

Đồng chí Lương Khánh Thiện sinh ngày 13/10/1903, trong một gia đình nông dân ở thôn Mễ Thượng, xã Liêm Chính, huyện Thanh Liêm, nay thuộc tỉnh Hà Nam.

Năm 1925, sau  khi đỗ bằng tiểu học, ông vào học kỹ nghệ thực hành Hải Phòng. Ở đây ông được các bạn thân kể cho nghe chuyện về những người yêu nước như Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Bội Châu,… Sau đó, ông đã tích cực tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước của học sinh. Tháng 11 năm 1925, địch bắt nhân dân và học sinh Hải Phòng đi đón Va ren, toàn quyền Đông Dương xuống Đồ Sơn nghỉ. Lương Khánh Thiện vận động anh em viết đơn đòi “ân sá” cụ Phan Bội Châu. Trước áp lực của quần chúng, Va ren phải nhận đơn và hứa sẽ giải quyết. Thi hành lệnh của bọn thống trị, giám đốc Trường Kỹ nghệ đuổi một số học sinh ra khỏi trường, trong đó có Lương Khánh Thiện.

Năm 1926, đồng chí Lương Khánh Thiện về Nam Định, xin vào làm thợ nguội ở Nhà máy Sợi. Đồng chí đã cùng một số anh em lập ra Hội tương tế để giúp đỡ lẫn nhau trong lúc túng thiếu khó khăn. Năm 1927, ở nhà máy sợi Nam Định, đồng chí được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng cách mạng đồng chí Hội. Năm 1928, đồng chí Lương Khánh Thiện trở lại Hải Phòng và được gặp đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Bí thư tỉnh bộ Hải Phòng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Thực hiện chủ trương “vô sản hóa” và chỉ thị của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, đồng chí Lương Khánh Thiện xin vào làm ở nhà máy sợi Hải Phòng.

Năm 1929, Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập, thì ở Hải Phòng, chi bộ cộng sản ra đời. Đồng chí Lương Khánh Thiện là một trong những người được kết nạp vào Đảng. Có Đảng lãnh đạo, phong trào công nhân trong các nhà máy xi măng, máy tơ, máy chai, máy điện,… phát triển mạnh. Nhiều cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ, chống đánh đập liên tiếp nổ ra. Ngày 7/11/1929, nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, cờ đỏ búa liềm và truyền đơn xuất hiện trên một số đường Hải Phòng. Đồng chí Lương Khánh Thiện bị chúng ghi tên vào sổ đen và bị đuổi ra khỏi nhà máy. Đồng chí phải rút vào hoạt động bí mật.

Sau cuộc biểu tình ngày 01/5/1930, đồng chí Lương Khánh Thiện bị bắt. Mật thám đánh đập tra tấn dã man hòng khám phá ra những cơ sở cách mạng và chủ trương của Đảng, nhưng đồng chí vẫn kiên gan chịu sự đau đớn, không khai báo. Bị giam ở nhà lao Hải Phòng, đồng chí Lương Khánh Thiện đã cùng chi bộ nhà tù tổ chức huấn luyện chính trị, dạy văn hoá cho anh em, ổn định chỗ ăn, ở và liên lạc với tổ chức Đảng bên ngoài.

Sau 7 tháng giam đồng chí Lương Khánh Thiện ở nhà lao Hải Phòng, thực dân Pháp đưa đồng chí ra xử ở Hội đồng đề hình Kiến An, cùng một số đồng chí khác. Các đồng chí đã biến toà án thành diễn đàn tố cáo tội ác của đế quốc Pháp và bọn tay sai, đồng thời nói rõ chủ trương làm cách mạng của mình là đánh đuổi đế quốc Pháp ra khỏi đất nước, lật đổ chế độ phong kiến, để giải phóng dân tộc và đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đồng chí Lương Khánh Thiện bị kết án khổ sai trung thân. Khi bị giam ở nhà tù Hoả Lò, Hà Nội, đồng chí Lương Khánh Thiện cùng các đồng chí khác thành lập chi bộ Đảng, ổn định sinh hoạt, tuyên truyền cách mạng và vận động anh em đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù.

Cuối năm 1930, đồng chí Lương Khánh Thiện và nhiều đồng chí nữa bị đày biệt xứ ra đảo Côn Lôn, ở nhà tù Côn Đảo, đồng chí Lương Khánh Thiện đã cùng với các đồng chí khác xây dựng hội cứu tế nhằm giúp đỡ lẫn nhau trong lúc thiếu thốn, ốm đau.

Khoảng cuối năm 1932, chi bộ Đảng trong nhà tù Côn Đảo được thành lập, đồng chí Lương Khánh Thiện đã ra sức góp phần xây dựng chi bộ. Bên cạnh đó, đồng chí còn được chi bộ tin cẩn, giao cho làm nhiệm vụ liên lạc giữa các lao. Khi chi bộ tổ chức học chính trị, đồng chí tham gia đều đặn và còn động viên giúp đỡ anh em học tập.

Tháng 5/1936, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào quần chúng lên cao. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi bọn thống trị ở Đông Dương phải trả tự do cho tù chính trị, phải thực hiện những cải cách dân chủ và cải thiện đời sống cho “ân sá” tất cả tù chính trị. Trước lực lượng đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta và dư luận báo chí, bọn thực dân Pháp buộc phải trả lại tự do cho một số tù chính trị. Đồng chí Lương Khánh Thiện được trở về đất liền. Về đến Hà Nội, đồng chí liên lạc với Đảng và tiếp tục hoạt động. Cuối năm đó, trong cuộc Hội nghị xứ ủy Bắc Kỳ mở rộng, đồng chí được cử vào xứ ủy. Được phân công hoạt động bí mật, đồng chí Lương Khánh Thiện len lỏi vào các xóm lao động, hoặc về nông thôn xây dựng cơ sở. Cùng với một số anh em đồng chí Lương Khánh Thiện mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ, tổ chức hội ái hữu, nghiệp đoàn và Đoàn thanh niên dân chủ.

Năm 1938, đồng chí Lương Khánh Thiện đã trực tiếp lãnh đạo công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm, Hà Nội đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm chống đánh đập đuổi thợ. Đồng chí thường xuyên đi sát, chỉ đạo cụ thể, động viên quần chúng giữ vững tinh thần, kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi. Năm 1939, bọn phản động thuộc địa thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo; ban bố lệnh tổng động viên, ra sức vơ vét sức người, sức của của nhân dân ta để dốc vào chiến tranh. Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương cho cán bộ của Đảng mau chóng rút vào bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, xây dựng lực lượng nông thôn và thành thị.

Đầu năm 1940, đồng chí được Đảng phân công về phụ trách khu B gồm Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên, Hồng Gai, Hải Dương, Hưng Yên và trực tiếp làm Bí thư thành ủy Hải Phòng. Thực hiện Nghị quyết của hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu và Nghị quyết của Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Lương Khánh Thiện đã tích cực xây dựng cơ sở cách mạng ở nông thôn, thành thị và vùng mỏ. Tháng 11/1940, Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ các dân tộc Đông Dương một cổ hai tròng, cho nên nhiệm vụ cách mạng của ta lúc này là lãnh đạo nhân dân Đông Dương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền. Chấp hành chủ trương mới của Đảng, đồng chí Lương Khánh Thiện càng bám sát cơ sở, tích cực xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Công việc đang xúc tiến thì đồng chí bị bắt. Địch ra sức mua chuộc, dụ dỗ rồi dùng cực hình tra tấn, nhưng không khuất phục được người chiến sĩ cộng sản kiên cường Lương Khánh Thiện. Toà án của đế quốc Pháp đã kết án tử hình và đưa đồng chí đi xử bắn vào ngày 01/9/1941, tại thị xã Kiến An, thành phố Hải Phòng.

Nói tóm lại, dù giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng với phương pháp và phong cách quyết đoán, sáng tạo đồng chí đã có những đóng góp quan trọng trong việc tuyên tuyền, đấu tranh, xây dựng, củng cố các tổ chức, cơ sở cách mạng, mở rộng địa bàn hoạt động của Đảng ở các tỉnh phía Bắc. Đồng thời, đào tạo đội ngũ cán bộ làm nòng cốt trong phong trào cách mạng của Đảng ta. Cuộc đời của đồng chí Lương Khánh Thiện là một tấm gương của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và phẩm chất cao đẹp của người cộng sản yêu nước.

Nhân kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Lương Khánh Thiện (13/10/1903-13/10/2023), Thư viện tỉnh Đồng Nai khái quát cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Lương Khánh Thiện, nhằm khẳng định những đóng góp, hy sinh cho cách mạng Việt Nam của đồng chí Lương Khánh Thiện là vô cùng to lớn, góp phần cổ vũ, động viên phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi. Những cống hiến to lớn của đồng chí Lương Khánh Thiện sẽ luôn là tấm gương sáng cho các thế hệ học tập và noi theo.

Tài liệu tham khảo:

1. Noi gương những người cộng sản / Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương. - H. : Thanh niên. - T.2. - 1974. - 89 tr. ; 19 cm.

2. Những người cộng sản trẻ tuổi / Đức Vượng, Nguyễn Đình Nhơn. - H. : Thanh niên, 2004. - 286 tr. ; 19 cm.

 

Nguyễn Mai

 

 

 

 

 

 

Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa (13/9/1913 - 13/9/2023)

Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, là nhà khoa học lớn đại diện xuất sắc cho đội ngũ khoa học Việt Nam. Đồng chí được biết đến với danh hiệu “Ông vua vũ khí”, người có công lớn trong việc xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

 Mồ côi cha từ năm lên 7 tuổi, dù trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng Phạm Quang Lễ đã cố gắng vươn lên và luôn đạt kết quả học tập xuất sắc trong mọi bậc học. Năm 1926, Phạm Quang Lễ thi đỗ hạng ưu vào Trường Trung học Mỹ Tho, được nhận học bổng 4 năm học. Tiếp đó, năm 1930, ông được tuyển thẳng vào Trường Trung học Petrus Ký (Sài Gòn) và được học bổng 3 năm liền. Năm 1933, ông đỗ thủ khoa tú tài bản xứ và tú tài Tây. Năm 1935, du học tại Pháp. Với trí thông minh và nghị lực cao, Phạm Quang Lễ đã nhận được cùng lúc ba bằng đại học: Kỹ sư Cầu đường, Kỹ sư Điện và Cử nhân Toán học. Sau đó, ông học lấy tiếp bằng Kỹ sư Hàng không, bằng của Trường Mỏ và Trường Đại học Bách khoa.

Năm 1939, Phạm Quang Lễ làm việc tại Nhà máy điện khí Thomson, rồi nhà máy sản xuất máy bay tại Pháp. Năm 1942, ông sang Đức làm việc trong Nhà máy chế tạo máy bay Halle và Viện nghiên cứu vũ khí, kỹ thuật hàng không, sau đó trở lại Pháp làm cho Công ty Sud Avion và một số công ty chế tạo máy bay của Pháp, tham gia Hội Việt Nam Ái hữu tại Pháp. Năm 1946, Phạm Quang Lễ gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp, rồi từ đó giác ngộ con đường cách mạng, trở về nước với tâm nguyện phụng sự đất nước.

Ngày 5/12/1946, thay mặt Chính phủ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định cử đồng chí Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục Quân giới, với trọng trách nghiên cứu, chế tạo vũ khí để bộ đội ta đánh giặc. Đồng thời, đặt cho đồng chí Lễ một bí danh mới -  Trần Đại Nghĩa, với đại ý: “Một là, họ Trần là họ của danh tướng Trần Hưng Đạo. Hai là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân, với đất nước. Đại Nghĩa còn là chữ của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo”. Việc gặp được Hồ Chủ tịch là một dấu mốc, bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Phạm Quang Lễ.

Trong điều kiện cuộc kháng chiến còn nhiều khó khăn, nhưng với vốn kiến thức tích lũy được trong thời gian học tập ở nước ngoài, cộng với sự thông minh, sáng tạo, đồng chí Trần Đại Nghĩa đã nhanh chóng bắt tay vào trực tiếp nghiên cứu và chỉ đạo nghiên cứu sản xuất, chế tạo thành công súng và đạn bazoka, súng đại bác không giật, bom bay, những loại vũ khí có trình độ hiện đại của thế giới lúc bấy giờ. Những trang thiết bị khí tài quân sự do đồng chí chế tạo đều được cấp tốc đưa đến các vùng chiến sự khốc liệt, góp phần làm nên những thắng lợi quan trọng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với súng bazooka (năm 1947), ngay sau khi xuất xưởng đã bắn cháy 2 xe tăng của Pháp, làm kẻ thù sửng sốt, còn quân và dân ta vô cùng phấn khởi, xem đó như là huyền thoại. Tiếp đó, sự ra đời của súng SKZ (năm 1950), một loại súng nhẹ, nhưng lại có sức công phá ngang cỗ đại bác, sau khi xuất xưởng đã phá tan các lô cốt địch có tường bê tông cốt thép dày hơn 1m trong trận Phố Lu. Rồi đồng chí tiếp tục chế tạo đạn bay, tên lửa đánh phá các mục tiêu ở cách xa 4 km...

Ghi nhận những đóng góp to lớn và những thành tích xuất sắc trong lĩnh vực nghiên cứu, chế tạo vũ khí, năm 1948, đồng chí Trần Đại Nghĩa được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Thiếu tướng, là một trong những vị tướng đầu tiên của quân đội ta. Năm 1952, tại Đại hội Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ I, Thiếu tướng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (là một trong ba Anh hùng Lao động đầu tiên của nước ta), do có những đóng góp to lớn trong cuộc chiến chống B52 và chế tạo những trang thiết bị đặc biệt cho bộ đội đặc công.

Kháng chiến chống Pháp kết thúc, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Thiếu tướng được Trung ương chuyển sang lĩnh vực dân sự, đặc trách các vấn đề khoa học, lần lượt đảm nhận các chức vụ: Giám đốc đầu tiên của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Công Thương (năm 1954), Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng (năm 1960), Ủy viên Ủy ban Khoa học Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước (năm 1965), Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Đại biểu Quốc hội các khóa II và III.

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn quyết liệt, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa được điều động trở lại quân đội làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, phụ trách kỹ thuật. Trong thời gian này, Thiếu tướng đã vận dụng tất cả những kinh nghiệm quý báu tích luỹ được trong cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như các kinh nghiệm của thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đối đầu với những vũ khí, khí tài hiện đại và phức tạp của Mỹ, Thiếu tướng đã chỉ đạo ngành quân giới nghiên cứu các loại vũ khí mới, cải tiến các loại vũ khí được viện trợ nhằm phát huy hiệu quả cao nhất trong mỗi trận đánh, đồng thời tìm tòi nghiên cứu các loại vũ khí của địch để ta có cách đánh phù hợp. Những nghiên cứu, cống hiến của Thiếu tướng cùng các cộng sự đã góp phần không nhỏ cùng với toàn dân tạo nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (tháng 5/1975), Chính phủ đã quyết định thành lập Viện Khoa học Việt Nam – Trung tâm nghiên cứu khoa học lớn nhất cả nước về khoa học tự nhiên và cùng một số ngành kỹ thuật. Giáo sư Trần Đại Nghĩa lúc này là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước được cử kiêm chức Viện trưởng đầu tiên của Viện Khoa học Việt Nam. Với những cống hiến và thành tích xuất sắc về khoa học, đầu năm 1966, Giáo sư được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về các công trình chế tạo vũ khí.

Có thể nói rằng, dù trên cương vị nào, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa cũng đem hết tâm huyết, trí tuệ và sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc và hoàn thành xuất sắc mọi trọng trách được giao. Là một trí thức trẻ du học và công tác ở phương Tây nhiều năm, đồng chí luôn mang trong mình tinh thần yêu nước, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa đã có công rất lớn trong việc xây dựng nền móng cho ngành quân giới Việt Nam trong những năm đầu kháng chiến và tiếp tục phát triển ngày càng trưởng thành, lớn mạnh ngành kỹ thuật quân sự, công nghiệp quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Ông là tấm gương sáng không chỉ có thế hệ người Việt trong nước nói chung và người Việt Nam đang sinh sống, làm việc ở nước ngoài nói riêng phấn đấu học tập và noi theo.

Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa mất ngày 9/8/1997, tại thành phố Hồ Chí Minh. Tên của ông đã được đặt cho nhiều con đường và trường học trên khắp đất nước Việt Nam.

Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, là dịp chúng ta ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và công lao to lớn của ông đối với dân tộc, đối với quê hương, đất nước; là dịp thế hệ hôm nay bày tỏ niềm tự hào, tưởng nhớ, biết ơn, kính trọng đối với một nhà khoa học lớn, một đại trí thức trong thời đại Hồ Chí Minh, nguyện không ngừng phấn đấu, nâng cao tri thức, trí tuệ, bản lĩnh, trách nhiệm và phẩm chất đạo đức, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ đi trước, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa nhà khoa học lớn với cách mạng Việt Nam / Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Tỉnh ủy Vĩnh Long. - H. : Chính trị Quốc gia : Sự thật, 2013. - 629 tr. ; 24cm.

 

Viện sĩ Trần Đại Nghĩa / Nguyễn Văn Đạo. - Tp. Hồ Chí Minh : Nxb. Trẻ, 2002. - 169tr : ảnh ; 20cm. - (Nam bộ nhân vật chí)

 

Nguyễn Mai

 

 

 

 

 

 

 

Những đóng góp của đồng chí Trường Chinh trên mặt trận văn hóa

Cố Tổng bí thư Trường Chinh – Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, khiêm tốn, mẫu mực, một nhân cách lớn, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và cách Mạng Việt Nam. Đồng chí luôn xuất hiện như ngọn cờ đỏ ở những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam, một tấm gương sáng về tính kiên cường cách mạng, tính nguyên tắc, tổ chức kỷ luật và tình cảm chân thành với đồng bào, đồng chí, khiêm tốn, giản dị trong cuộc sống hằng ngày.

Với 81 năm tuổi đời, hơn 60 năm hoạt động cách mạng liên tục (1925 - 1988) , đồng chí được phân công giữ nhiều trọng trách quan trọng của Đảng, Nhà nước như: Quyền Tổng bí thư, rồi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam, Tổng bí thư Đảng Cộng sảng Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII,… trên mọi cương vị công tác, đồng chí luôn thể hiện là người cán bộ lãnh đạo mẫu mực, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Không chỉ là một nhà chính trị, nhà chiến lược, nhà tư tưởng, nhà lý luận uyên bác, đồng chí còn là nhà văn hóa, nhà báo, nhà thơ thời kỳ hiện đại có nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền văn hóa mới. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của mình, đồng chí đã để lại một hệ thống các tác phẩm đồ sộ, trải rộng trên nhiều lĩnh vực chính trị - triết học, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao,… Những công trình nghiên cứu ấy không chỉ đóng góp to lớn về quan điểm, đường lối mà còn là những đột phá quan trọng về quan điểm chiến lược và sách lược, về phương pháp cách mạng và nghệ thuật chỉ đạo cách mạng; phản ánh cuộc đấu tranh gian khổ, hy sinh kiên cường của dân tộc ta trong kháng chiến cũng như tinh thần đổi mới sáng tạo trong thời bình. Có thể nói, với đồng chí Trường Chinh, văn hóa đã làm phong phú thêm chính trị và chính trị đã soi đường cho văn hóa.

Đồng chí Trường Chinh là nhà văn hóa sớm đặt cơ sở lý luận cho việc xậy dựng một nền văn hóa mới Việt Nam theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng:

Lĩnh hội và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí đã khởi thảo “Đề cương về văn hóa Việt Nam” và được Hội nghị Trung ương Đảng thông qua cuối tháng 2-1943. Đây là cương lĩnh văn hóa cội nguồn, tạo nên bước ngoặt của nền văn hóa tự giải phóng, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng văn hóa dân tộc Việt Nam. Qua cương lĩnh này, đồng chí đã chỉ rõ những nguy cơ mà văn hóa nước nhà bị trói buộc, mê hoặc, trấn áp do ảnh hưởng bởi chế độ cũ. Vì vận mệnh giải phóng dân tộc, văn hóa cần phải thức tỉnh tiến bộ hơn, chống lại những âm mưu văn hóa ngu dân và nô dịch của phát xít, thực dân, để lan tỏa những tư tưởng tiến bộ đến đông đảo nhân dân. Không chỉ vậy, cương lĩnh còn chỉ ra rằng, văn hóa là một lĩnh vực thiết yếu của đời sống xã hội, có quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác là kinh tế, chính trị. Đối với kinh tế, văn hóa với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng chịu sự quyết định của điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội rất chặt chẽ; đồng thời, văn hóa ảnh hưởng lại đời sống vật chất của xã hội và góp phần không nhỏ vào công cuộc cải tạo xã hội. Đối với chính trị, văn hóa gắn bó mật thiết với chính trị, phục vụ chính trị, “tức là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ đấu tranh nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, phục vụ sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội,…”. Với những tư duy sắc sảo, kiến thức uyên bác, tầm nhìn xa rộng, đồng chí Trường Chinh là người có công đầu tổng kết những vấn đề văn hóa Việt Nam theo quan điểm mácxít. Đồng chí đã giúp cho những người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật xác định lập trường văn hóa vững vàng trong cách mạng giải phóng dân tộc là: Về mặt xã hội phải lấy giai cấp công nhân làm gốc, về chính trị phải lấy độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc, về tư tưởng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm gốc, về sáng tạo văn nghệ phải lấy chủ nghĩa hiện thực, xã hội chủ nghĩa làm gốc. Từ những quan điểm tiến bộ ấy, cho đến nay cương lĩnh về văn hóa của đồng chí Trường Chinh vẫn được Đảng và Nhà nước nghiên cứu, kế thừa và phát triển trong các văn kiện của Đảng ta qua các thời kỳ.

Ngoài “Đề cương về văn hóa Việt Nam” ra đồng chí Trường Chinh còn viết rất nhiều tác phẩm như: “Kháng chiến về mặt văn hóa” (trích trong Kháng chiến nhất định thắng lợi, viết năm 1947), “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” (năm 1948),… đã đi vào lịch sử như là những tác phẩm lý luận tiêu biểu về văn hóa mới – văn hóa cách mạng Việt Nam. Với những đóng góp quan trọng và trực tiếp đối với việc xây dựng nền văn hóa cách mạng, đồng chí Trường Chinh xứng đáng được tôn vinh là một trong những người khai tạo ra nền văn hóa mới Việt Nam.

Đồng chí Trường Chinh – Một cây bút xuất sắc của nền báo chí cách mạng; một tâm hồn thơ giàu cảm xúc, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ ca cách mạng Việt Nam:

Không chỉ là một nhà lý luận, nhà lãnh đạo văn hóa, bản thân đồng chí Trường Chinh còn là một nhà báo cách mạng nổi tiếng. Kế tục xuất sắc sự nghiệp báo chí cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, đồng chí đã tạo nên một văn phong chính luận cách mạng cho nền báo chí nước nhà. Những bài báo của đồng chí có tính chiến đấu cao, sức thuyết phục lớn, ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. Ngay từ khi còn trẻ, đồng chí đã làm chủ bút nhiều tờ báo, như: Dân cày, Con đường chính,… Tiếp đó là người chịu trách nhiệm trực tiếp những cơ quan ngôn luận của Đảng như: báo Cờ Giải phóng, Sự thật, tạp chí Cộng sản,…

Đối với đồng chí Trường Chinh, báo chí là một mặt trận, là vũ khí lợi hại để tấn công tiêu diệt kẻ thù, mặc cho kẻ thù đó là đế quốc, tay sai hay những kẻ mạo danh mácxít. Các bài báo của đồng chí mang tính chiến đấu rõ ràng, không có quan điểm trung dung mà thường đi thẳngvào sự việc, sự thật, để nêu ra phương hướng giải quyết dứt khoát. Chúng ta có thể kể ra hoàng hoạt các bài báo nổi tiếng của đồng chí như: “Mặt trận bình dân hay Mặt trận dân chủ”, “Dân Pháp và vấn đề Đông Dương độc lập”, “Cách mạng Tháng Tám: Triển vọng của cách mạng Việt Nam”, “Hãy nhằm những chỗ yếu của địch mà đánh cho thật mạnh!”,…

Không chỉ vậy, đồng chí Trường Chinh còn là nhà báo bậc thầy, luôn luôn quan tâm đào tạo, dẫn dắt các thế hệ làm báo lớp sau. Đồng chí đặt niềm tin, giao công việc cho những người làm báo trẻ tuổi và thường xuyên tìm cách bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kiến thức thực tiễn để giúp họ trưởng thành hơn trong nghề. Mặc dù công việc rất bận rộn, đồng chí vẫn cố gắng thu xếp thời gian để đọc góp ý, bổ sung cho bài viết giúp các tác giả trẻ học hỏi được những kinh nghiệm quý báu của Người.

Không chỉ là một cây bút xuất sắc của nền báo chí cách mạng Việt Nam, đồng chí Trường Chinh còn là nhà thơ cách mạng nổi tiếng với bút danh Sóng Hồng. Với gần 70 bài đã sưu tập được, trong đó có nhiều bài nổi tiếng, thơ Sóng Hồng thể hiện một tâm hồn luôn luôn lạc quan, tin tưởng ở tiền đồ xán lạn của cách mạng. Thơ của ông góp phần đánh dấu bước trưởng thành của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, có sức chiến đấu cao và lòng nhân ái sâu sắc.

Ở đồng chí Trường Chinh, nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà hoạt động văn hóa, nhà báo, nhà thơ đã quyện với nhau làm một, tạo nên một tinh thần và cốt cách Trường Chinh sáng ngời trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. Đó là sự thể hiện một cách sinh động lương tâm, trí tuệ và tình cảm cách mạng cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản suốt đời phấn đấu hy sinh vì dân, vì nước. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày mất của cố Tổng bí thư Trường Chinh (30/9/1988 – 30/9/2023), Thư viện tỉnh Đồng Nai xin giới thiệu sơ lược những đóng góp to lớn của đồng chí trên mặt trận văn hóa nói riêng. Ôn lại cuộc đời hoạt động cách mạnh sôi nổi, phong phú trên nhiều lĩnh vực của đồng chí Trường Chinh giúp cho bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ tuổi ghi nhớ hơn về truyền thống lịch sử cách mạng vẻ vang của dân tộc, tích cực học tập và noi theo những đức tính tốt đẹp của đồng chí để vượt qua khó khăn, giành những thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

 

Hằng Nga

 

Tài liệu tham khảo

Đồng chí Trường Chinh - Nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, người con ưu tú của quê hương Nam Định. - H. : Chính trị Quốc gia , 2017. - 599 tr. ; 24 cm.

Đồng chí Trường Chinh với báo chí / Nguyễn Thành. - H. : Thanh niên , 2003. - 442 tr. : chân dung ; 19 cm.

Trường Chinh - Một trí tuệ lớn, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam /  Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết. - H. : Chính trị Quốc gia Sự thật , 2020. - 946 tr. : ảnh ; 24 cm.

Trường Chinh một tư duy sáng tạo một tài năng kiệt xuất / Trần Nhâm. - H. : Chính trị quốc gia , 2009. - 838 tr. ; 21 cm.

 

 

 

 

 

 

Kỷ niệm 110 năm ngày mất của Bộ binh thượng thư Đại thần Tôn Thất Thuyết (1913 - 2023)

Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29 tháng 3 năm Kỷ Hợi (tức 12/5/1839) trong một gia đình hoàng tộc nhà Nguyễn tại thôn Phú Mộng, xã Xuân Long, Kinh thành Huế. Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình chi phái dòng họ Nguyễn đang trị vì đất nước, Tôn Thất Thuyết có nhiều thuận lợi để học hành và bước chân vào con đường công danh sự nghiệp. Bình sinh ông là một quan văn. Năm 1869 ông đã làm Án sát tỉnh Hải Dương rồi làm Biện lý Bộ Hộ. Năm Canh Ngọ (1870), ông được sung chức Tán tướng quân vụ cùng với Thống đốc Quân vụ Hoàng Tá Viêm đi tiễu phỉ ở vùng biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh, Thái Nguyên,… Cũng từ đây, sự nghiệp của Tôn Thất Thuyết chuyển sang ngạch võ.

Nhận trách nhiệm trước triều đình, cùng với Hoàng Tá Viêm dẹp yên sự quấy phá của bọn giặc phỉ người nước Thanh tràn sang nước ta, Tôn Thất Thuyết đã tỏ rõ năng nổ, hăng hái, lắm cơ mưu nên đã lập được nhiều công lớn. Ngay sau khi mới ra nhận chức, Tôn Thất Thuyết đã đem quân chia làm 3 đạo đi đánh giặc ở vùng mỏ Nà Khôn (thuộc tỉnh Thái Nguyên), trực tiếp đốc đạo quân đánh vào tận sào huyệt quân giặc, thu được toàn thắng. Vua Tự Đức đã khen rằng: “Thắng trận như thế công không kể hết được”. Do công lao và tài năng thực sự, Tôn Thất Thuyết đã được thăng chức khá nhanh: Năm 1870 làm Tán tướng quân vụ Sơn Tây, sau được cử làm Tán lý quân thứ Thái Nguyên, rồi làm Bố chính Hải Dương. Ba năm sau (1873), ông được phong làm Tham tán quân vụ, kiêm Tham tri Bộ Binh. Đến năm 1875 ông được cử giữ chức quyền Tổng đốc bốn tỉnh Ninh – Thái – Lạng – Bình (Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng). Sau đó, được bổ nhiệm chức Hiệp thống quân vụ. Cuộc chiến đấu chống quân phỉ ở biên giới phía Bắc khi đó rất phức tạp, cũng có nhiều trận, nhiều lúc quân triều đình bất lực. Ông là người chịu trách nhiệm cũng nhiều phen bị triều đình quở trách, phạt cách tước hiệu chức vụ, rồi sau lập được công, lại được khôi phục chức tước.

Không chỉ quan tâm tới công việc phòng thủ giữ vững độc lập và chủ quyền của Tổ quốc, Tôn Thất Thuyết còn cùng các tướng lĩnh phải lăm lộn vất vả để dẹp giặc phỉ ở phía Bắc. Lúc này, ông cũng nhận thấy rõ nguy cơ Pháp sẽ kéo quân ra đánh chiếm Bắc kỳ. Ông đã chủ động dâng sớ về triều đình xin cho Nguyễn Tri Phương ra trấn trụ ở Hà Nội.

Đến khi thành Hà Nội bị thất thủ (20/11/1873), rồi các tỉnh Hưng Yên, Phủ Lý, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định lần lượt bị giặc chiếm đóng. Mặc dù chưa có lệnh của triều đình, ông đã hăng hái cùng Hoàng Tá Viên kéo quân từ Sơn Tây về phối hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích đánh tan giặc Pháp tại Cầu Giấy (21/12/1873), tướng giặc là Francis Garnier phải đền tội tại trận. Sau chiến thắng vang dội này, triều đình Huế một mặt xuống dụ khen Hoàng Tá Viên và Tôn Thất Thuyết, một mặt lại truyền dụ cho quân đội của Tôn Thất Thuyết “phải đóng quân ở tỉnh Sơn Tây, nuôi uy thế, chứa sức mạnh,…”. Thực chất là buộc ông phải “án binh bất động”. Như vậy là ngay từ đầu, Tôn Thất Thuyết đã tỏ rõ tư tưởng chống Pháp. Nhưng sự hèn nhát và ngăn cản của triều đình đã khiến ông không được thỏa chí. Cộng thêm là bệnh tật giày vò do phải lăn lộn ở nơi “sơn lam chướng khí”, tức nơi rừng núi âm u, có nhiều khí độc nên năm 1878, ông xin triều đình cho về dưỡng bệnh tại Thanh Hóa. Trong thời gian này, ông liên lạc với các sĩ phu văn thân yêu nước trong tỉnh và bàn định kế hoạch xây dựng cơ sở kháng chiến. Năm 1879, ông tìm gặp Tống Duy Tân và đặc cách bổ dụng làm Đốc học, rồi Chánh sứ Sơn phòng ở Quảng Hóa (Vĩnh Lộc), để lo việc tuyển quân, tích trữ lương thực, sẵn sàng chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp mà ông dự đoán sẽ bùng nổ.

Đến tháng 8 năm 1881, do tình hình mới, vua Tự Đức buộc phải gọi ông ra nhận chức Thượng thư Bộ Binh, phụ trách toàn bộ việc quân của triều đình. Năm 1883, ông được cử vào Viện Cơ mật. Khi vua Tự Đức băng hà (17/7/1883), ông lại được trao quyền phụ chính cùng với Trần Tiễn Thành và Nguyễn Văn Tường cáng đáng việc nước khi vua còn nhỏ tuổi. Do nắm cả quyền chính trị và quân sự trong tay, ông đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong các hoạt động và đối sách của triều đình Huế lúc đó.

Trên đà thắng thế, thực dân Pháp ngày càng lấn tới, bắt ép triều đình ký điều ước Quý Mùi (25/8/1883), rồi điều ước Giáp Thân (6/6/1884), từng bước xác lập và củng cố nền bảo hộ của chúng trên toàn bộ đất nước ta. Trong khi đó, phái kháng chiến do Tôn Thất Thuyết lãnh đạo vẫn bí mật chuẩn bị lực lượng, như: “mở đường đạo”; gấp rút xây dựng hệ thống đồn sơn phòng dọc theo dãy Trường Sơn; chuyển súng đạn, đại bác, kho tàng, lương thực ra căn cứ ở Tân Sở (Quảng Trị); ráo riết tổ chức và đẩy mạnh luyện tập cho quân sĩ,… để chờ đến ngày sống mái với quân thù.

Càng ngày, thực dân Pháp càng thấy rõ Tôn Thất Thuyết là trở ngại lớn nhất cho việc thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam của chúng. Cho nên, chúng tìm mọi cách gạt bỏ ông ra khỏi triều đình và nếu cần thiết chúng có thể thủ tiêu ông; bóp chết lực lượng chống Pháp còn sót lại trong triều đình Huế.

Trước tình hình cấp bách ấy, buộc Tôn Thất Thuyết và các đồng chí của ông phải hành động trước, không thể bị động ngồi chờ kẻ thù tiêu diệt. Theo kế hoạch đã định, đêm ngày 4/7/1885, lợi dụng lúc thực dân Pháp chủ quan sơ hở, đang say sưa yến tiệc trong Tòa Khâm sứ bên bờ sông Hương. Cánh quân do Tôn Thất Lệ (em trai của Tôn Thất Thuyết) chỉ huy tấn công vào Tòa Khâm sứ Pháp. Cánh quân thứ hai do Trần Xuân Soạn chỉ huy tấn công vào đồn Mang Cá, nơi tập trung phần lớn binh lực của quân đội Pháp. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Nhưng do việc chuẩn bị chưa thật chu đáo, so sánh lực lượng lại chênh lệch có phần lợi cho Pháp nên cuộc tấn công do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đã thất bại nhanh chóng. Sau đó, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị), rồi theo đường rừng Trường Sơn chạy ra Sơn phòng Phú Gia (Hà Tĩnh) và ban chiếu cần vương, huy động lực lượng, kêu gọi nhân dân đứng lên chống kẻ thù xâm lược.

Ở triều đình Huế, Pháp nhanh chóng lập Nguyễn Khánh lên làm vua bù nhìn, ra lệnh tước hết quan tước và tịch thu gia sản của Tôn Thất Thuyết. Đồng thời, ban lệnh săn lùng, khủng bố những người yêu nước; tìm và giết chết Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, vua Hàm Nghi,…

Tháng 8 năm 1886, trước những khó khăn ngày càng lớn, Tôn Thất Thuyết giao cho hai con trai và các thủ lĩnh khác ở lại bảo vệ vua Hàm Nghi. Còn ông theo đường rừng sang Trung Quốc cầu viện. Việc cầu viện không thành, ông bị nhà Thanh trở mặt đưa ông đi an trí ở Long Châu, rồi Thiều Châu. Trước sự tan rã của phong trào kháng chiến, Tôn Thất Thuyết rất đau buồn và phải sống tha hương những năm tháng cuối đời. Ông mất ngày 22/9/1913 tại Thiều Châu (Trung Quốc).

Là người chủ trương kháng chiến, là người khởi phát phong trào Cần Vương, Tôn Thất Thuyết đã chấp nhận hi sinh vô cùng to lớn đối với bản thân và gia quyến. Vợ ông là Văn Thị Thu và mẹ ông là Lê Thị Thành phải chết dọc đường di tán. Hai con trai chết khi bảo vệ vua Hàm Nghi. Cha ông bị Pháp bắt, đày ra Côn Đảo và mất tại đó. Ba em trai của ông tham gia phong trào Cần Vương kháng Pháp rồi bị giặc bắt, tù đày và hi sinh. Có thể nói, toàn thể gia quyến Tôn Thất Thuyết đã tham gia kháng chiến, mỗi người tùy vào tài năng và sức lực đã góp phần xương máu của mình vào công cuộc giải phóng dân tộc.

Bằng hành động kiên quyết, dũng cảm, ý thức trách nhiệm cao đối với dân, với nước, Tôn Thất Thuyết đã trở thành một lãnh tụ kháng chiến tiêu biểu và đã đóng vai trò to lớn trong phong trào đấu tranh vũ trang của nhân dân ta thời kì cuối thể kỷ XIX. Tấm gương anh hùng, bất khuất của ông luôn truyền động lực cho bao thế hệ con dân Việt Nam đứng lên chống giặc ngoại xâm; bảo vệ vững chắc nền độc lập và tự do cho nước nhà; xây dựng quê hương, đất nước phát triển vượt bậc. Nhân kỷ niệm 110 năm ngày mất của Bộ binh thượng thư Đại thần Tôn Thất Thuyết (1913 - 2023), Thư viện tỉnh Đồng Nai xin giới thiệu sơ lược về tiểu sử, sự nghiệp và những đóng góp của ông trong những ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược. Giúp bạn đọc hiểu hơn về lịch sử đấu tranh anh hùng của cha ông trong gìn giữ và bảo vệ chủ quyền đất nước. Đồng thời, khơi gợi niềm tự hào dân tộc, cố gắng tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất, đạo đức và nỗ lực trong lao động, sản xuất, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phát triển hùng cường./.

Đào Thanh

 

Tài Liệu Tham Khảo

Danh tướng Việt Nam trong lịch sử /  Đỗ Đức Hùng.  T.3. - H. : Văn học , 2021. - 21 cm ; 220 tr.

Tôn Thất Thuyết và phong trào Cần Vương /  Đoàn Thị Tuyết Mai lời ; Nguyễn Trí Phương tranh. - Tái bản lần thứ 1, có chỉnh lý. - H. : Giáo dục , 2017. - 27 tr.

Danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết (1839 - 1913) / Đinh Xuân Lâm chủ biên, Phạm Đình Nhân, Doãn Đoan Trinh. - H. : Nxb. Hà Nội , 1998.- 351 tr.

 

 

 

 

 

 

 

Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa với những đóng góp trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt Nam

Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những lời truyền miệng nhau việc Bác Hồ đưa từ Pháp về một kỹ sư chế tạo vũ khí rất giỏi, đã làm nức lòng mọi người khi bước vào cuộc chiến đấu đầy gian khổ, không cân sức giữa ta và địch. Ông là ai? “Là một đại trí thức, đi học ở Châu Âu đã nhiều năm, mang một lòng nhiệt tình về phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến, đó là Anh hùng lao động trí óc Trần Đại Nghĩa” – (trên báo Nhân dân số 61 ra ngày 12/6/1952, dưới bút danh C.B., Bác Hồ đã viết về Trần Đại Nghĩa).

Cái tên Trần Đại Nghĩa rất có ý nghĩa, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cho, đã theo ông đi cùng năm tháng của hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đã định hướng cho mỗi hành động của ông khi nhận và làm bất cứ nhiệm vụ gì cũng vì nghĩa lớn, cũng là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trần Đại Nghĩa đã không quản vất vả, ngày đêm miệt mài nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều loại vũ khí, đạn dược phục vụ đắc lực, hiệu quả cho bộ đội chiến đấu. Trong hòan cảnh đất nước rất khó khăn, thiếu thốn, nhưng với trách nhiệm được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó - trực tiếp đứng đầu ngành quân giới non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông đã cùng các đồng sự đem hết tâm sức, trí lực nghiên cứu, chế tạo thành công các loại vũ khí có uy lực phục vụ cuộc kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đi đến thắng lợi hòan toàn.

Giai đoạn từ năm 1945-1954, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không được một quốc gia, tổ chức quốc tế nào ủng hộ và giúp đỡ, vì thế, quân và dân ta phải tiến hành cuộc chiến đấu với tinh thần hòan toàn dựa vào sức mình. Vũ khí của ta còn thiếu và thô sơ, súng đạn không đủ cho bộ đội chiến đấu ngoài mặt trận, thậm chí còn phải dùng cả gậy tầm vông, mã tấu, dao găm, súng kíp, cung nỏ… Do nhu cầu cấp bách về vũ khí trang bị cho quân đội, Bác Hồ đã giao cho kỹ sư Trần Đại Nghĩa làm Cục trưởng Cục quân giới, tổ chức nghiên cứu chế tạo vũ khí, đáp ứng nhu cầu cho các chiến trường. Bằng vốn tri thức hiểu biết về vũ khí của nước Pháp và phương Tây tích luỹ được từ 11 năm học tập ở xứ người, ông và các cộng sự đã chạy đua với thời gian, tổ chức khôi phục, sửa chữa các loại súng, đạn, mìn thu được của Pháp, Nhật. Đặc biệt nghiên cứu chế tạo thành công súng, đạn bazooka (2/1947) có sức đâm xuyên đạt độ sâu 75cm trên tường thành, tương đương với sức nổ xuyên của đạn bazooka do Mỹ chế tạo. Bộ đội ta được trang bị súng bazooka, đánh công đồn, diệt xe tăng, thiết giáp và các loại thiết xa vận, tàu chiến hiệu quả. Từ khi đưa vào sử dụng, súng, đạn bazooka trong các trận đánh lớn đã làm cho địch tổn hại nặng nề. Chính cống hiến to lớn này, kỹ sư Trần Đại Nghĩa được phong quân hàm Thiếu tướng, trở thành 01 trong 11 vị tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam (khi mới 35 tuổi). Sau súng, đạn bazooka, kỹ sư Trần Đại Nghĩa và cộng sự tiếp tục nghiên cứu chế tạo thành công súng không giật (SKZ) ngang bằng vũ khí hiện đại của Mỹ, một loại súng rất nhẹ, chỉ 20kg, bắn vào những pháo đài kiên cố của địch, đầu đạn xuyên thủng bê tông cốt thép dày hàng mét. Loại súng này được dùng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, đã giúp bộ đội ta tiêu diệt nhiều lô cốt, đồn bốt địch. Cống hiến to lớn tiếp theo của kỹ sư Nghĩa là chế tạo thành công vũ khí – bom bay (còn gọi là đạn bay), loại vũ khí có sức công phá lớn, giáng xuống đầu quân địch những đòn sấm sét nhất, trong các trận chiến khốc liệt nhất. Năm 1949, Thiếu tướng, kỹ sư Trần Đại Nghĩa được giao đồng thời hai nhiệm vụ: Cục trưởng Cục Quân giới và Cục trưởng Cục Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam. Song song với tổ chức chế tạo vũ khí, đồng chí đã lãnh đạo, tổ chức xây dựng lực lượng pháo binh ngày càng hùng mạnh, hiện đại, phục vụ cho cách mạng Việt Nam…

Có thể nói, đây cũng là giai đoạn đồng chí Trần Đại Nghĩa có những đóng góp nổi bật nhất cho cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện hoàn cảnh đất nước khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt, nhất là những tài liệu và nguyên liệu để chế tạo vũ khí, việc Trần Đại Nghĩa lần lượt nghiên cứu, chế tạo thành công súng bazooka, SKZ, đạn bay thực sự là những kỳ tích, góp phần quan trọng trong việc xoay chuyển cục diện trên chiến trường, làm cho cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam có điều kiện đi đến thắng lợi.

Năm 1966, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày càng khốc liệt, đồng chí Trần Đại Nghĩa được điều động trở lại Bộ Quốc phòng, giữ cương vị Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, đồng thời được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Đồng chí đã vận dụng những kinh nghiệm quý báu tích luỹ được trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và các kinh nghiệm phong phú của thế giới. Đối đầu với những vũ khí, khí tài hiện đại, phức tạp của Mỹ, lúc đầu ta phải cải tiến các vũ khí được viện trợ, sau đó phải phát triển nhiều loại vũ khí khác nhau để địch đối phó khó hơn. Tình hình chiến trường, chiến lược, chiến thuật của ta có nhiều điểm khác với các nước, vì vậy việc sản xuất thêm vũ khí mới thích hợp là rất cần thiết. Với lòng say mê nghiên cứu khoa học, đồng chí tiếp tục có những đóng góp quan trọng trong việc cải tiến vũ khí, kỹ thuật nhằm chống lại chiến tranh phá hoại do Mỹ gây ra, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc đời và những đóng góp to lớn của đồng chí Trần Đại Nghĩa thực sự trở thành một tấm gương tiêu biểu để các thế hệ người Việt Nam tiếp bước noi theo. Đó là tấm gương về ý chí quyết tâm vượt qua hoàn cảnh khó khăn để học tập và khi đã trưởng thành, nắm giữ những cương vị lãnh đạo, quản lý quan trọng trên các lĩnh vực khác nhau; đó là tấm gương về sự khát khao tìm hiểu, tiếp thu tri thức cần thiết, hữu ích để phục vụ sự nghiệp kháng chiến của đất nước; đó là tấm gương lao động quên mình, mọi lúc, mọi nơi, đi tiên phong trong những lĩnh vực khoa học còn mới mẻ, sẵn sàng nhận và làm tốt bất cứ nhiệm vụ gì được giao; đó là tấm gương về nhân cách trọng tín nghĩa, thủy chung, quan tâm, đoàn kết với mọi người, giản dị, khiêm nhường trong cuộc sống, say mê, tận tuỵ trong nghiên cứu khoa học và đào tạo đội ngũ cán bộ kế tiếp…

Không chỉ là “Ông vua” vũ khí, “Ông Phật làm súng”- (tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt cho ông), mà Trần Đại Nghĩa còn là một nhà khoa học xuất chúng, nhà sư phạm hàng đầu của Việt Nam, là một trong những nhà khoa học tiên phong đặt nền móng và có đóng góp lớn trong việc xây dựng, phát triển nền khoa học, kỹ thuật của nước nhà đào tạo nên những thế hệ các nhà khoa học tài danh trên nhiều lĩnh vực khoa học, đời sống, làm vẻ vang đất nước.

Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa (13/9/1913 - 13/9/2023), điểm lại những đóng góp to lớn trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt Nam, nhằm tiếp tục khẳng định đồng chí Trần Đại Nghĩa là một nhà khoa học chân chính, một trí thức Việt Nam thời hiện đại, một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, quyết tâm và nghị lực phi thường vượt qua khó khăn, gian khổ để cống hiến trọn đời mình cho cách mạng Việt Nam. Thế hệ hôm nay luôn tự hào, biết ơn, ghi nhớ và tiếp bước noi theo tấm gương của Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa./.

Nguồn tham khảo

1. Phỏng vấn các tướng lĩnh Việt Nam : Nhân vật - sự kiện - lịch sử / Phan Hoàng. - In lần 2. - Tp. Hồ Chí Minh : Tạp chí kiến thức ngày nay. - T.1, 1997. -124 tr. ; 21cm.

2. Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa nhà khoa học lớn với cách mạng Việt Nam / Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Tỉnh ủy Vĩnh Long. - H. : Chính trị Quốc gia : Sự thật, 2013. - 629 tr. ; 24 cm.

 

Đinh Nhài

 

 

 

 

 

 

1 - 10 Tiếp theo