Bỏ qua nội dung chính

Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Tìm kiếm
Trang chủ
Tra cứu
Tài Liệu Số
Thư viện Koha
Văn bản
Youtube
Gallery
  

Thư viện Tỉnh Đồng Nai > Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam > Bài đăng > TRẦN ĐẠI NGHĨA
TRẦN ĐẠI NGHĨA

 

Cục tởng Cục Quân giới (12/1946-05/1954).

Cục trưởng Cục Pháo binh (8/1949-11/1951).

Thứ trưởng Bộ Công nghiệp (9/1950-9/1960).

Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng (9/1960-2/1963).

Phó Chủ nhiệm ủy ban Kiến thiết Nhà nước (2/1963- 3/1972).

Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước (10/1965-8/1966).

Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (8/1966-1/1977).

Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam (1/1977-1/1983), tiền thân của Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia ngày nay.

Năm 1966, ông được nhà nước ta phong Giáo sư và Viện hàn lâm khoa học Liên Xô phong Viện sĩ.

Phần thưởng được Đảng, Nhà nước trao tặng:

Giải thưởng Hồ Chí Minh với công trình: Nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo súng Bazôka, súng SKZ, đạn bay trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954.

-      Huân chương Hồ Chí Minh.

-      Huân chương Quân công hạng Nhất, hạng Ba.

- Anh hùng Lao động (đợt phong Anh hùng Lao động đầu tiên ở nước ta 1952).

Năm phong quân hàm cấp tướng:

Thiếu tướng năm 1948.

Giáo sư Trần Đại Nghĩa sinh ra trong một gia đình nhà giáo nghèo.

Mồ côi cha từ năm 10 tuổi, Phạm Quang Lễ do tiếp thụ được truyền thông yêu nước thương người của gia đình và có trí óc thông minh, đã được mẹ và chị hết lòng nuôi dưỡng. Năm 1926, Lễ học xong bậc tiểu học, tốt nghiệp hạng ưu và sau đó đỗ tiếp vào Trường trung học Mỹ Tho. Vì đỗ hạng ưu nên Lễ được cấp học bổng. Suốt bốn năm học ở bậc trung học đệ nht cấp, Lễ là học sinh xuất sắc, thường đạt điểm cao và đứng đầu về các môn khoa học tự nhiên như toán, vật lý, hoá học. Năm 1930, Lễ tốt nghiệp trung học phổ thông và tiếp tục học Trung học đệ nhị cấp Pê trus Ký, một trường học nổi tiếng của Sài Gòn. Trường quy định chặt chẽ giờ học, giờ nghỉ, giờ ăn, giờ ngủ nhưng đốì với những học sinh ham học như Lễ, giờ học trong nội quy còn quá ít. Anh và các bạn đã nghĩ ra cách học. Khi có lệnh tắt đèn đi ngủ, họ chia nhau người vào nhà tắm, người vào nhà cầu, bật đèn học tiếp. Thoạt đầu, các giám thị rất ngạc nhiên: nhà cầu đóng cửa hàng giờ mà không có ai ra, nhà tắm đóng cửa mà không có tiếng xốì nước. Sau đó nhiều người phát hiện được mưu mẹo của Lễ và các bạn anh nhưng rồi nể họ là những học sinh ham học nên phần đông giám thị bỏ qua. Cũng trong thời kỳ Lễ học Trung học đệ nhị cấp Pê-trus Ký, có nhiều hoạt động chng thực dân Pháp nổ ra như hoạt động của cụ Phan Bội Châu, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, các cuộc bãi công, bãi thị do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, khởi nghĩa Yên Bái. Các sự kiện đó khơi sâu lòng yêu nước trong giới học sinh. Tuy nhiên, hầu hết đều bị thực dân đàn áp dã man và bị thất bại. Một trong những nguyên nhân thất bại là vấn đề vũ khí: lực lượng cách mạng không có vũ khí trong khi quân đội thuộc địa được trang bị đến tận răng. Mun thắng kẻ thù, ngoài những người lo về chính trị, phải có người lo về quân sự, về khoa học, về vũ khí. Cho nên, Lễ đã sớm xác định hướng đi cho mình là học giỏi, nhất là các môn khoa học tự nhiên để sau này nghiên cứu về vũ khí giúp cho công cuộc giải phóng dân tộc.

Năm 1933, chàng thanh niên 20 tuổi Phạm Quang Lễ đã đỗ xut sắc hai bằng tú tài: Tú tài Tây và Tú tài bản xứ.

Tháng 9 năm 1935, nhận được học bổng du học bên Pháp của Hội ái hữu trường Xatxơlu Lôba, Phạm Quang Lễ có cơ hội để thực hiện hoài bão của mình. Suốt 11 năm học tập tại Pháp, anh miệt mài nghiên cứu tại Trường đại học Soocbon, Viện Khí động học, Học viện Thng kê, Trường cao đẳng kỹ thuật Điện… Sau giờ học, anh thường đến các thư viện để tra cứu sách liên quan đến chế tạo vũ khí. Anh cũng tìm đến những hiệu sách cũ để tìm những quyển sách về đề tài này...

Trong lĩnh vực vũ khí quân sự, Đức là nước đạt nhiều thành tựu. Để đọc thẳng sách về vũ khí bằng tiếng Đức, Phạm Quang Lễ đã tự học thứ tiếng này. Trong ba ngày, anh học hết những nguyên tắc cơ bản của văn phạm và bắt đầu đọc sách... Ngoài nghiên cứu về sản xuất vũ khí, Lễ còn tìm hiểu thêm môn khoa học quản lý. Anh cũng nhận thấy phải giữ bí mật cho những công việc của anh. Vì thế, anh đã tìm đọc những sách nói về công tác phản gián. Anh cần biết các điệp viên thường làm những gì khi điều tra đối tượng của họ, để anh giữ mình... Anh làm việc kín đáo đến mức: công việc anh làm trong mười một năm vẫn không ai hay, trừ một vài người bạn.

Sau khi tốt nghiệp các trường đại học (trong khoảng thời gian 1936-1941), Phạm Quang Lễ đã lần lượt làm việc tại ba công ty chế tạo máy bay của Pháp. Trong thời gian này, ông đã thu thập thêm kiến thức về pháo, súng máy và bom mìn đồng thời quan sát các ụ súng của quân đội Pháp chuẩn bị để ứng chiến với phát xít Đức.

Tháng 9 năm 1946, ông cùng với một số trí thức khác theo Bác Hồ về nước để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chng ngoại xâm của dân tộc ta.

Chỉ 7 ngày sau khi về nước (27/10/1946), Phạm Quang Lễ lập tức được Bác trực tiếp giao nhiệm vụ lên Thái Nguyên, nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu badôca của Mỹ, với hai viên đạn do Giáo sư Tạ Quang Bửu lúc này là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cung cp. Phải bắt tay vào việc ngay. Nhưng mới chỉ được ít hôm thì lại có điện gấp từ Bộ Quốc phòng gọi về gặp Bác Hồ.

Ngày 5/12/1946, Phạm Quang Lễ tới Bắc bộ phủ. Lòng khấp khởi, chàng kỹ sư trẻ không hiểu Bác mun gặp mình để giao nhiệm vụ gì. Vừa gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng nhưng cũng đầy thân mật bảo: Kháng chiến sắp đến nơi rồi, hôm nay tôi gọi chú lại để trao cho chú nhiệm vụ làm Cục trưởng quân giới. Chú lo vũ khí cho bộ đội diệt giặc. Bác Hồ giao cho ông toàn quyền hành động trong việc chế tạo vũ khí mà không phải thông qua bt kỳ một cấp nào khác.

Rồi Người căn dặn: Việc của chú là việc đại nghĩa, vì thế từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa. Dùng bí danh này để giữ bí mật cho chú và để bảo vệ gia đình, bà con chú còn ở trong Nam. Bác giải thích ý nghĩa cái tên: Một là họ Trần, là họ của danh tướng Trần Hưng Đạo. Hai là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân, với đất nuớc. Đại Nghĩa còn là chữ của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo. Chú có ưng bí danh đó không?.

Thế là từ đấy, cái tên Trần Đại Nghĩa gắn với cuộc đời ông.

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Trần Đại Nghĩa với tư cách là một lãnh đạo và một nhà khoa học, đã cùng với các đồng chí của mình và hàng ngàn công nhân kỹ thuật trong cả nước hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình: sản xuất vũ khí cho quân đội Việt Nam. Thành công về quân giới của chúng ta trong hai cuộc kháng chiến chủ yếu là do biết tập trung vào vũ khí phục vụ chiến tranh nhân dân. Những công trình khoa học kỹ thuật chế tạo vũ khí như Bazôka, súng đại bác không giật (SKZ),... thực sự là những kỳ tích của Trần Đại Nghĩa và các cộng sự của ông. Các công trình này đã đóng góp vào việc giải quyết lý thuyết và thực nghiệm các vn đề về cơ khí, hỏa thuật và thuốc phóng để chế tạo thành công súng Bazôka bắn đạn lõm, công cụ chủ yếu chống chiến xa lúc bấy giờ, với sức xuyên thép 150 mm, súng có thể vác vai cơ động, cự ly bắn 50-150 m. Loại vũ khí này mang tính sáng tạo cao, phù hợp với điều kiện vật chất và kỹ thuật của Việt Nam lúc bấy giờ, góp phần quan trọng vào việc tăng cường hỏa lực của bộ binh ta, tạo điều kiện thuận lợi để đánh thắng kẻ thù. Với những đóng góp của ông cho ngành quân giới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng ông danh hiệu Ông Phật làm súng. 

Trần Đại Nghĩa cũng là một nhà nghiên cứu rất có quyết tâm, không sờn lòng trước những khó khăn. Người nghiên cứu phải có một niềm tin mãnh liệt không nản chí trước những thất bại tạm thời, bền bỉ, nhẫn nại đến mức cao nhất, ông luôn nghĩ và làm như vậy.

Vì những đóng góp to lớn đối với quân đội Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, Trần Đại Nghĩa được kết nạp vào Đảng năm 1949 và được phong quân hàm Thiếu tướng.

Ngày 1/5/1952, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa được tuyên dương Anh hùng Lao động trong s bảy Anh hùng của Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc được tổ chức tại Việt Bắc. Bác Hồ trong một bài báo ký tên C.B đã viết về ông: Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa là một đại trí thức, mang một lòng nhiệt thành về phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến.

Năm 1983, ông nhận nhiệm vụ vận động đội ngũ trí thức trong tất cả các ngành khoa học và công nghệ thành lập Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp hội). Giáo sư Trần Đại Nghĩa trở thành Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp hội, nhiệm kỳ 1983-1988.

Dù ở cương vị nào ông cũng hoàn thành nhiệm vụ. Là một quân nhân, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa luôn dũng cảm, tận tụy. Là một nhà khoa học, Giáo sư, Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô Trần Đại Nghĩa đã nêu tấm gương của một nhà nghiên cứu chân chính, hết lòng vì sự nghiệp khoa học.

Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa qua đời vào hồi 16 giờ 20 phút ngày 9/8/1997, hưởng thọ 85 tuổi.

(Sưu tầm)

 

 

Comments

Không có nhận xét nào cho bài đăng này.