- Thăng Long (rồng bay lên): Đây là cái tên có tính văn chương nhất. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép” “Mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thanh Hoa Lư dời đô ra Kinh phủ thành Đại La tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuền ngự, nhân đó mới đổi tên thành, gọi là thành Thăng Long”.
- Đông Đô: sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: ''Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hội là Đông Đô”. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà nguyễn có chú thích: ''Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long Là Đông Đô”.
- Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị, Kinh đô của Việt Nam được ví như ''Cửa quan phía Đông'' của nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng Đô ở thành Đông Đô, sau đó đổi tên là thành Đông Quan.
- Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của tên Đông Kinh như sau: ''Vua (Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Thiêng, dựng quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức thành Thăng Long. Vì ở Thanh Hóa có Tây Đô cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh''.
- Bắc Thành: Đời Tây Sơn, vì Kinh đô đó đóng ở Phú Xuân (Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc Thành.
- Thăng Long (Thịnh vượng lên): Sách lịch sử Thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế). Không ra Th8ang Long, cử Nguyễn V8an Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi Kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đổi làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu và quen dùng trong dân gian nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long nhưng đổi chữ ''Long'' là Rồng thành chức ''Long'' nghĩa là thịnh vượng, lấy cớ rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây nữa thì không được dùng chữ “Long'' là ''rồnlg'' (Theo lịch sử thủ đô Hà Nội do Trần Huy Liệu chủ biên).
Việc thay đổi nói trên xảy ra vào năm 1805, sau Đó Gia Long còn hạ lệnh Phá bỏ hoàng thành cũ vì vua không đóng đô ở Thăng Long mà hoàng thành Thăng Long thì rộng lớn quá.
- Hà Nội: Sách lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: ''Năm 1831 vua Minh Mạng đem Kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ, huyện xung quanh như huyện từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thưởng Tín lập thành tỉnh Hà Nội. Tên Hà Nội xuất hiện từ đó. Lấy khu vực Kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội'' (Lịch sử thủ đô Hà Nội Trần Huy Liệu chủ biên).
Ngoài những tên chính thức được ghi trong sách, trong thơ văn xưa còn dùng tên Tràng An (chẳng thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Thàng An), Long Thành (tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long), Hà Thành (tên viết tắt của thành phố Hà Nội), Kinh Kỳ (thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến)… để ám chỉ Thăng Long hay Hà Nội.
NGUYỄN NHÂN THỐNG
(Quy Nhơn – Bình Định)
Xuân Thái Bình 2010. Tr. 16