Phụ nữ Việt Nam là những người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh; là những chiến sĩ tham gia chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm; là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc; là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, biết bao bà mẹ đã không chỉ một lần gạt nước mắt tiễn chồng, con ra mặt trận, biết bao bà mẹ đã đào hầm để nuôi giấu cán bộ cách mạng từ lúc tóc còn xanh cho đến khi phơ phơ đầu bạc và còn đó hình ảnh những bà mẹ thức thâu đêm vá áo, hình ảnh những nữ thanh niên xung phong xuôi ngược trên Trường Sơn rực lửa. Từ tiền tuyến đến hậu phương, máu và nước mắt của các mẹ, các chị đã đổ góp phần cho đất nước nở hoa độc lập, kết trái tự do.
Một trong những tấm gương tiêu biểu và đẹp nhất của người phụ nữ Việt Nam chính là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai. Ánh lên trong tâm hồn người chiến sĩ cộng sản ấy là biết bao đức tính tốt đẹp mà thế hệ trẻ chúng ta cần học tập và noi gương:
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai – nữ chiến sĩ cách mạng kiên trung bất khuất; nữ Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn đầu tiên và duy nhất:
Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh ngày 1-11-1910, tại xã Vịnh Yên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình công chức nhỏ. Mặc dù hoàn cảnh gia đình còn nhiều khó khăn, nhưng Nguyễn Thị Vịnh vẫn được bố mẹ cho theo học chữ quốc ngữ từ nhỏ. Sau khi học hết lớp Nhì, chị chuyển sang học lớp Nhất trường Cao Xuân Dục và được các thầy giáo Trần Phú, Hà Huy Tập dạy học và giác ngộ cách mạng.
Sống trong cảnh nước mất nhà tan, phải chứng kiến sự cai trị rất hà khắc của thực dân Pháp và tay sai đối với nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Nghệ - Tĩnh nói riêng, Chị căm thù giặc sâu sắc và tham gia hoạt động cách mạng từ khi vừa tròn 16 tuổi. Đồng chí tích cực tham gia các phong trào đấu tranh tại quê hương, vận động phụ nữ tham gia bãi khóa, vận động nữ sinh góp tiền mua hoa, mua vải may băng tang đi dự lễ truy điệu một năm ngày mất nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh và ký tên vào bản yêu sách đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu.
Đầu năm 1929, được sự đồng ý của tổ chức, đồng chí bí mật thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng và được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ, huấn luyện đảng viên ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy và tổ chức Hội Phụ nữ Giải phóng. Cuối năm 1930, được tổ chức cử sang Hương Cảng (Trung Quốc), công tác ở Văn phòng Đông Phương Bộ của Quốc tế Cộng sản. Tại đây, đồng chí được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (với bí danh Lý Thụy) trực tiếp giáo dục về lý luận chính trị, kinh nghiệm hoạt động cách mạng, nhờ vậy đồng chí tiến bộ rất nhanh và được giao nhiệm vụ liên lạc với các tổ chức cách mạng Việt Nam ở trong nước, vừa công tác, đồng chí vừa tranh thủ học thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc.
Cuối năm 1934, với bí danh là Phan Lan, đồng chí được Đảng cử đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII tại Mátxcơva cùng với đồng chí Lê Hồng Phong và Hoàng Văn Nọn. Ngày 16-8-1935, lần đầu tiên trên diễn đàn của một đại hội quốc tế, người phụ nữ Việt Nam 25 tuổi dõng dạc đọc bài tham luận về vai trò của phụ nữ Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống chiến tranh đế quốc và bảo vệ hoà bình: “Thời gian gần đây tính tích cực của phụ nữ đang phát triển. Họ tham gia các cuộc bãi công của thợ thuyền và đấu tranh của dân cày. Nữ công nhân và nữ dân nghèo thành thị đang say sưa đấu tranh…”
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã có nhiều đóng góp cho công tác tuyên truyền vận động của Đảng:
Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông, đồng chí nhận nhiệm vụ về hoạt động tại Thượng Hải (Trung Quốc). Năm 1937, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai về nước hoạt động cách mạng, lúc này phong trào dân chủ 1936 - 1939 đang diễn ra hết sức sôi nổi. Đây là phong trào cách mạng diễn ra trên quy mô rộng lớn toàn quốc thu hút đông đảo nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, sử dụng những hình thức và phương pháp đấu tranh linh hoạt, phong phú, sinh động, có tổ chức dưói sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ. Quần chúng được giác ngộ về chính trị, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng. Phong trào đã động viên, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo đấu tranh, đồng thời đập tan những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc với những hành động phá hoại của các thế lực phản động khác.
Ngày 30-7-1940, sau khi dự phiên họp Xứ ủy bàn về chủ trương khởi nghĩa, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị thực dân Pháp bắt. Chúng đưa đồng chí về Khám Lớn Sài Gòn và tra tấn hết sức dã man. Trong tù, đồng chí tiếp tục vận động chị em phụ nữ đấu tranh. Sau những trận đòn tra tấn, đồng chí đã dùng máu viết lên tường xà lim những câu thơ nêu cao phẩm chất, khí tiết của người chiến sĩ cộng sản:
“Dù đánh, dù treo, càng kiên quyết,
Dù kìm, dù kẹp, chẳng sai lời.
Hy sinh phấn đấu vì nhiệm vụ,
Triệt để thực hành chết mới thôi”
Nữ chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai - Biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam kiên cường, bất khuất và dạt dào tình cảm:
Tham gia hoạt động cách mạng là chọn cho mình con đường đầy chông gai và gian khổ, với người phụ nữ thì điều này còn khó khăn hơn nhiều. Đồng chí đã một lòng phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, vẹn nguyên tình cảm vợ chồng, tình mẫu tử thiêng liêng. Chỉ những người phụ nữ thật sự vĩ đại mới có thể chịu đựng được nỗi đau, nỗi nhớ nhung khi phải rời xa đứa con vừa chào đời của mình, để tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Mùa xuân năm 1939, đồng chí sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Hồng Minh, chỉ kịp ở với con một tháng, rồi gửi con lại cho cơ sở cách mạng nuôi, tiếp tục đi hoạt động và từ lúc đó cho đến khi hy sinh, đồng chí luôn đè nén nỗi nhớ nhung của một bà mẹ phải rời xa đứa con của mình để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó.
Khi bị sa vào tay giặc, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai biết giặc Pháp sẽ giết mình. Đứng trước lằn ranh giữa sự sống và cái chết, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai suy nghĩ và bình tĩnh chuẩn bị cho ngày vĩnh biệt đồng chí, đồng bào. Trước lúc hy sinh, đồng chí còn kịp làm ba việc: Một là gửi lời vĩnh biệt tới người chồng thương yêu đang bị đày ngoài Côn Đảo; hai là gửi lời cảm ơn đến những đồng chí đang nuôi nấng Hồng Minh; Ba là tước vải quần áo nhà tù, khâu một chiếc áo gối gửi tặng mẹ gọi là một chút lòng hiếu thảo của người con đối với mẹ. Ngã xuống khi mới 31 tuổi, trước khi ra pháp trường, đồng chí đã nhắn nhủ đồng bào, đồng chí:
“Vững chí bền gan ai hỡi ai,
Kiên tâm giữ dạ mới anh tài.
Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ,
Con đường cách mạng vẫn chông gai.”
Cuộc đời phấn đấu không biết mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tấm gương hy sinh anh dũng của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai là biểu tượng sáng ngời cho người phụ nữ Việt Nam. Đúng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng, thanh niên Việt Nam là thanh niên anh hùng, phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng”.
Đào Thanh